Nhà nghiên cứu Trịnh Thị Nga |
Thánh
Tông hoàng đế (1258-1278), huý là Hoảng, con trưởng của vua Trần Thái Tông và
bà Thuận Thiên công chúa họ Lý. Ông sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240), mất
ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), quê gốc tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường,
nay là thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, là vị vua thứ hai của
triều Trần. Ông được thừa hưởng hai dòng máu: bên ngoại, mẹ là Công chúa Thuận
Thiên con gái cả vua Lý Huệ Tông, một triều đại tôn sùng đạo Phật, lấy
"nhân trị" làm quốc sách; bên nội họ Trần, khởi phát từ dân chài lưới
trên sông nước, với ý thức rèn luyện văn võ, gắng vươn lên quản lý đất nước một
cách xuất sắc, đã xây dựng nền "văn trị".
Thái
tử Trần Hoảng (Trần Thánh Tông) cùng phụ vương đã không ngần ngại xông pha trận
mạc để đánh bại kẻ thù hung hãn khi chúng xâm lăng Đại Việt. Ông được kế vị vào
ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258) và đặt niên hiệu là Thiệu Phong, làm vua hai
mươi mốt năm (1258-1278), có nhiều đóng góp trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ông là người biết sử dụng nhân tài, biết chăm lo việc triều chính của đất nước.
Tháng
3 năm Nhâm Tuất (1262) vua Trần xuống chiếu cho các đạo sản xuất binh khí, đóng
thuyền chiến và cho quân tập trận ở chín bãi
phù sa sông Bạch Hạc. Nhiều lần Thánh Tông sai sứ thần sang nhà Nguyên cống nạp
để làm dịu tình hình, kéo dài thời gian hoà hoãn, tích lương thảo dồi dào chuẩn
bị kháng chiến. Tháng 10 năm Bính Dần (1266), Thánh Tông xuống chiếu cho các
vương hầu, công chúa, phò mã, phi tần được phép chiêu tập người phiêu tán làm
nô tỳ để khai khẩn đất hoang, lập các điền trang thái ấp, vương hầu bắt đầu có
trang thực từ đấy.
Vua
Thánh Tông đã định lệ phong ấm cho người trong Hoàng tộc với thời hạn năm đời
khiến sự gắn bó giữa quý tộc và triều đình được tăng lên, tạo sức mạnh trong
Hoàng tộc "Tông thất duy thành".
Ông
còn nói: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp tổ tông phải
cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn,
được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột
thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho
con cháu để nhớ lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm cho tông miếu xã tắc!".
Thánh Tông còn xuống chiếu sau buổi chầu thì vào điện Lan Đình cùng nhau ăn uống,
hoặc khi trời tối thì đặt gối dài, trải chăn rộng cùng ngủ liền giường với
nhau, nhưng khi lễ lớn, chầu mừng thì phải theo ngôi thứ cao thấp phân minh. Mọi
người vừa thân mật vừa kinh sợ, không dám kiêu căng khinh nhờn. Và đây là sự
đoàn kết bền chặt, là sức mạnh nội sinh dẫn đến thắng lợi chống đế quốc Nguyên
- Mông thế kỷ XIII của Đại Việt:
Anh em đệm cả gối dài
Sân trong yến tiệc, cõi
ngoài ấm phong
Một thiên truyền phụ
phép lòng
Di mưu cho kẻ nối dòng
ngày sau
Văn nho khuya sớm giảng
cầu
Kẻ tu sử ký, người chầu
kinh diên
Bề ngoài nghiêm việc
phòng biên
Kén quân đoàn luyện, tập
truyền cửu sa
Về
giáo dục, có thể nói đời Trần đã mở ra một giai đoạn mới cho sự nghiệp giáo dục
nước ta. Triều đình chọn các nho sinh hay chữ vào các quán, các sảnh, viện để
tăng hiệu lực cho bộ máy nhà nước. Đặc biệt mùa xuân năm Nhâm Thân (1272) Hàn
lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại
Việt sử ký từ Triệu Vũ đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển. Bộ Đại Việt sử
ký soạn xong dâng lên vua, được vua Trần Thánh Tông quan tâm và khen ngợi.
Thánh Tông hoàng đế cho
tìm người thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ai biết giảng dạy Tứ
thư, Ngũ kinh được vời vào hầu vua và dạy hoàng tử. Lê Phụ Trần (Lê Tần) được
làm Thiếu sư kiêm chức sử cung giáo thụ ở cung Thái Từ. Nhà vua còn đích thân
viết thơ để dạy hoàng tử và làm tập "Di hậu lục" gồm hai quyển
truyền cho đời sau.
Năm ất Hợi (1275), triều
đình mở khoa thi tuyển người tài lấy đỗ Thái học sinh gồm 27 người và chọn Tam
khôi gồm Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn.
Năm
1278, ông nhường ngôi cho Hoàng Thái tử Khâm giữ ngôi Thái Thượng hoàng. Khi giặc
Nguyên lại lăm le xâm lược nước ta ông cùng vua con tổ chức hội nghị Bình Than
(1282), hội nghị Diên Hồng (1284), phát động tinh thần yêu nước của toàn dân.
Ông trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, góp phần
làm nên chiến thắng lịch sử năm 1285 và 1288, bẻ gãy ý đồ xâm lược của kẻ thù.
Do đoán trước được nguy cơ xâm lược của thế lực phong kiến phương Bắc, một đế
quốc hùng mạnh, Thánh Tông biết lo xa đã tuyển lựa dân đinh khoẻ mạnh bổ sung
cho quân đội, đồng thời kiện toàn bộ máy chỉ huy quân sự của vương triều.
Vai trò Thượng hoàng vô
cùng quan trọng dù trong bối cảnh nội tộc có sự bất hoà, nhưng ông vẫn tin tưởng
và cử Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân. Phải nói Thượng
hoàng Thánh Tông có con mắt tinh đời hơn người nên vừa chọn được hiền tài, lại
làm vơi đi hiềm khích, củng cố sức mạnh đoàn kết trong Hoàng tộc nhà Trần.
Người
thống nhất quan điểm với Hưng Đạo Vương về "Lấy dân làm gốc" chính là
Thánh Tông và nhờ những quan điểm ấy nên cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
nhanh chóng thắng lợi đưa lại chiến công huy hoàng về cho đất nước Đại Việt.
Thánh
Tông thấu hiểu công lao cũng như xương máu của quân và dân nên sau mỗi trận
đánh, Thượng hoàng cùng vua cho hội họp luận bàn công trạng để ban thưởng cho
quân cũng như dân. Ông cũng nói rõ quan điểm của nhà vua chống tư tưởng thích
ban khen nhiều, thưởng thật hậu, mà sách Đại Việt sử ký toàn thư đã đề cập:
"Các người quả biết rõ là giặc Hồ nhất định không dám xâm lấn nữa thì nói
rõ cho trẫm biết, dù có thăng lên đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không
thế đã vội thưởng hậu, lỡ ra giặc Hồ trở lại mà bọn ngươi lại lập công nữa thì
trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ" (Đại Việt sử ký toàn
thư, bản kỷ, q. 5, tr. 70).
Sau
chiến thắng Nguyên - Mông, triều đình định công lao tướng sĩ. Ai có công lớn được
chép vào sách "Trung hưng thực lục" và được vẽ hình lưu lại làm
gương, đặc biệt là có định lệ phong ấm tới năm đời để "cố kết" lòng
trung thành với triều đình.
Trần
Thánh Tông không chỉ là ông vua có tài thu phục nhân tâm, đề ra quyết sách để
an dân, dựng sự bình yên cho đất nước. Ông còn là vua anh hùng trong kháng chiến
chống đế quốc Nguyên - Mông, nổi bật là sau khi nhường ngôi ông đã chú trọng
nghiên cứu Thiền tông, cuối đời ông đi tu lấy hiệu Vô Nhi Thượng. Bản tính ông
ham thích làm thơ, ông có viết: "Trần Thánh Tông thi tập", thơ ông bị
thất lạc nhiều nay chỉ còn một số bài như "Cảnh mùa hè", "Ra phủ
an bang"… làm theo thể Đường luật hiện chép tại Lịch triều hiến chương
loại chí và Toàn Việt thi lục. Một số tác phẩm như: "Chỉ giá
minh", "Cơ cừu lục", "Di hậu lục", "Hoàng tông ngọc
diệp", "Phóng cuồng ngưu", là những công trình công phu đáng
giá, nhưng thật đáng tiếc là các tác phẩm trên đều không còn. Song qua một số
bài thơ còn lại có thể khẳng định chất trữ tình, phóng khoáng thể hiện tinh thần
chiến đấu quật cường, ý thức dân tộc sâu sắc.
Ông là một tác gia Hán - Nôm được lưu danh thiên cổ.
Sách
"Thánh đăng thực lục" chép được một số bài thơ về Thiền học và một số
câu vấn đáp về Phật học.
Trong những bài thơ còn lại tới ngày nay trong thi tập của
vua Thánh Tông, nổi tiếng nhất là bài Hạnh Thiên Trường hành phủ (Chơi
hành cung Thiên Trường).
Nguyên
văn chữ hán:
幸天長行府
景 清 幽 物 亦 清 幽
十 一 仙 洲 此 一 洲
百 部 生 歌 禽 百 舌
千 行 奴 僕 橘 千 頭
月 無 事 照 人 無 事
水 有 秋 涵 天 有 秋
四 海 已 清 塵 已 靜
今 年 遊 勝 昔 年 遊
Dịch
nghĩa:
Hạnh Thiên Trường hành phủ
Cảnh thanh nhã, vật cũng thanh nhã
Đây là một trong mười một châu thần tiên
Trăm giọng chim là trăm bộ sáo đàn
Hàng ngàn ngọn quýt là hàng ngàn tôi tớ
Trăng nhàn hạ soi người nhàn hạ
Nước mùa thu ngậm trời mùa thu
Bốn bể đã trong, bụi đã lắng
Năm nay chơi thu hơn
hẳn cuộc đi chơi năm xưa
Dịch
thơ:
Chơi hành cung Thiên Trường
Cảnh thanh u, vật cũng thanh u
Mười một tiên châu đây là một
Trăm tiếng đàn ca chim sánh giọng
Nghìn hàng tôi tớ quất nhô đầu
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước ngậm thu lồng trời ngậm thu
Bốn bể đã trong như đã lắng
Năm nay chơi thu vượt năm nao
(Nguyễn
Đổng Chi - dịch)
Đây
là bài thơ rất đặc sắc, kết hợp hài hoà tinh thần tự hào dân tộc của người chiến
thắng với tấm lòng yêu cuộc sống bình yên, khi đất nước thanh bình, biểu hiện
vua Thánh Tông "văn tức là người vậy".
Trên
đây là tâm sự của nhà thơ sau khi cha con ngài bôn ba nơi chiến trận đánh quân
Nguyên - Mông xâm lược. Dẹp xong bọn giặc giày xéo non sông đất nước, quân dân
ca khúc khải hoàn, nhà vua trở lại thôn quê thấy cảnh sinh tình, nghĩ lại những
việc đã qua khi vận nước nghiêng ngả tưởng không còn có được ngày nay, nên đã
thốt ra lời thơ cảm xúc, phiêu diêu của một vị đế vương có tâm hồn đạo sĩ và
nghệ sĩ. Rõ ràng văn thơ Thánh Tông dù là thơ văn chiến trận, hay cảm hoài tả cảnh,
tả tình đều gắn bó với nhân dân, với cuộc sống, với cuộc kháng chiến chống xâm
lược. Tác giả đã sẵn có tâm hồn thiền tinh tuý nơi tâm linh với tôn giáo và
ngay cả trong hành động. Đối với cái tâm thiền ấy thì "Chân là Mỹ và Mỹ là
Chân". Tuyệt đối là Chân - Thiện - Mỹ và tương đối là đời sống thế gian thị
phi, thiện ác. Vua Trần Thánh Tông ở đây đã cảm nhận sự dung hoà giữa thiện -
ác, xấu - tốt, nhân cảnh vật hiện ở trước mắt, ngài liên tưởng một tiên cảnh bồng
lai:
Cảnh thanh u, vật diệc thanh u
Thập nhị tiên châu, thử nhất châu
Thực tế vị
tất đã đẹp đến thế? Vì chiến trận cảnh chém giết tàn phá, tội ác, lầm than cực
khổ vẫn chưa phai mờ. Ngài mơ tưởng một thế giới thần tiên cho nhân dân cũng
như cho chính mình trong ấy tràn đầy nguồn sống cho tất cả, cho cảnh tình cũng
như cho sự vật hết thảy đều vui vẻ, ai nấy đều được hân hoan:
Bách hộ
sinh ca, cầm bách thiệt
Thiên hàng
nô bộc quất thiên đầu
Tâm của Người dường như
thanh thản để phục hồi đời sống thế gian, như ánh trăng sáng soi chiếu chung cả
đất trời không riêng tư, trong trẻo như nước mùa thu phản chiếu cả một bầu trời
thu man mác:
Nguyệt vô
sự chiếu nhân vô sự
Thuỷ hữu
thu hàm thiên hữu thu
Theo
Tuệ Trung thượng sĩ thì tinh thần thiền học của vua Thánh Tông hợp nhất cả trí
tuệ của thiền học với tình yêu của giáo tôn cùng sự quan tâm cứu khổ, cứu nạn.
Sự hợp nhất ấy không những tỏ rõ ở người anh hùng chiến thắng quân Mông Cổ, mà
còn hiểu để hoà mục trong nhà, trong họ, nhân từ đối với dân trong nước. Thơ của
Thánh Tông còn cho thấy nghệ thuật cao siêu qua câu thơ ở mỗi trước tác. Với
vua Thánh Tông "Đạo học là thi ca, và thi ca là đạo học".
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
Thuỷ hữu thu hàm thiên hữu thu
Trăng hồn nhiên không bận lòng với những lo lắng của
con người, soi sáng lòng người thoát tục thảnh thơi. Nước thu trong phản chiếu
cảnh trời thu trong. Thật là trong ngoài tương ứng, cho nên Lê Trừng đã nhận định
về con người Trần Thánh Tông: "Tự tính thanh cao, thiên nhiên phú quý quốc
quân phong vị dữ nhân từ biết hỷ". Nghĩa là tự bẩm tính nhà vua thanh cao,
giàu sang phong vị đế vương một nước, khác hẳn với người ta vậy!
Các
tác gia văn học thời đầu thịnh Trần đều là những nhà trí thức lớn nhưng vị trí
xã hội khác nhau và họ đã mở nước giữ gìn và phát triển triều Trần từ đầu cho đến
khi cực thịnh. Một phương diện nữa của văn học thời kỳ thịnh Trần. Văn học thời
kỳ này không ít tác phẩm của nhà nho, nhưng đâu đó lại mang triết lý Phật học.
Trong khi đó một số bài thơ của Thánh Tông lại có tư tưởng Nho gia, những câu
thơ của Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng làm sau khi đánh tan giặc Nguyên được
đời đời truyền tụng:
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông thiên cổ vững âu vàng.
Một thuở công danh thiên hạ có
Hai triều trung hiếu thế gian không
Phan
Huy Chú trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí có nhận xét: "Thơ
Trần Thánh Tông các bài đều có phong vị thơ Đường".
Trần
Thánh Tông là vị vua không chỉ có tài thu phục nhân tâm cùng những quyết sách để
an dân, lấy sự thanh bình cho đất nước. Một ông vua anh hùng trong kháng chiến
đánh tan giặc Nguyên - Mông xâm lược, lại biết lấy đức để trị và chính đức sáng
của ông đã quy tụ được toàn dân trong cuộc chiến tranh tự vệ cứu nước đầy gian
nguy, khốc liệt.
Thánh
Tông quả là người nhân từ như cổ nhân đã nói: "Duy nhân giả, năng hiếu
nhân, năng ố nhân". (Duy có người
nhân mới biết yêu, ghét người một cách chính đáng).
Trương
Hán Siêu, một danh sĩ thời Trần, trong bài Bạch Đằng Giang phú đã ca ngợi
công đức nhà vua:
Anh minh hai vị
thánh quân
Bởi đâu đất hiểm cốt
mình đức cao.
Ngày 25
tháng Năm năm Canh Dần (1290) Thượng hoàng băng ở cung Nhân Thọ, đến ngày 15
tháng 12 cùng năm táng thượng hoàng ở Dụ Lăng, miếu hiệu là Thánh Tông truy tôn
là Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh, Văn Vũ Tuyên Hiếu Hoàng Đế. Tại Cố hương Tức
Mặc hậu thế lập miếu hiệu, tạc tượng bằng đồng thờ vua tại cung Trùng Quang,
Trùng Hoa nay là đền Thiên Trường và đền Trùng Hoa là nơi lúc sinh thời khi làm
vua cũng như lúc đã làm Thái thượng hoàng, Trần Thánh Tông thường lui tới bàn kế
sách đánh giặc Nguyên Mông và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trinh Thị
Nga
(1) Đại
Việt sử ký toàn thư, tập II, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998,
tr. 33
(2) Đại
Việt sử ký toàn thư, tập II, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998,
tr. 36
(3) Đại
Việt sử ký toàn thư, tập II, Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998,
tr. 37
(*) Câu
đối hiện đang treo tại trước cửa cung cấm đền Thiên Trường, phường Lộc Vượng,
thành phố Nam
Định.
ẤN PHẨM “NAM ĐỊNH XƯA VÀ NAY” CỦA HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ TỈNH NAM ĐỊNH SỐ RA THÁNG 1 NĂM 2020 ĐĂNG BÀI ĐẠO VĂN
Trả lờiXóaTrong ấn phẩm “Nam Định xưa và nay” của Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Nam Định số ra tháng 1 năm 2020 do ông chủ tịch PGS.TS Trần Đức Minh chịu trách nhiệm xuất bản, kèm theo một ban biên tập gồm các ông PGS.TS Trần Đức Minh, Phạm Phú Thiệm, Ngô Tiến Vạnh, Trần Trọng Thụy, Đồng Ngọc Hoa – Toàn những ông tôi quen biết và đã cao niên, lão làng, lắm danh hiệu và bằng cấp lắm…
Vậy mà trang 36 – 39 và 50 lại đăng bài “Trần Thánh Tông vị vua anh hùng cứu nước” của tác giả “Th.sĩ Trịnh Thị Nga Trường chính trị Trường Chinh” đã đạo trắng trợn, đạo nguyên văn bài “TRẦN THÁNH TÔNG - Người Anh hùng cứu nước ba lần đánh tan giặc Nguyên – Mông” của tác giả Trịnh Thị Nga – nguyên cán bộ Ban quản lý di tích đền Trần, đồng nghiệp bộ môn Nghiên cứu phê bình Hội VHNT Nam Định với tôi. Bài của nhà nghiên cứu Trịnh Thị Nga đã gửi tôi đăng lên blog của mình tại địa chỉ http://tranmygiong.blogspot.com/2018/12/tran-thanh-tong-nguoi-anh-hung-cuu-nuoc.html#more.
Đây là hành động ăn cắp văn trắng trợn của một vị cán bộ Trường chính trị Trường Chinh, rất cần được dư luận bạn đọc lên án. Thật đáng buồn và xấu hổ với việc tiếp tay cho kẻ cắp của các vị mang trọng trách ghi chép lịch sử trong Ban biên tập nói trên.
Trần Mỹ Giống