QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài
những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan
mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt
chiu
Khoai sắn vẫn len
vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói
ngủ
Thương cánh cò bấu
bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo
ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao
hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người
bán
Lẻ tẻ mấy người
mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác
xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con
cá mắm
Lũ trai mặt mũi
mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau
nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời
như chiếu bạc
Thương con cò con
vạc
Mỏi cổ chồn chân
trên đồng đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ
thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ
thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng
dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông
cốt thép
Ngạo nghễ tượng
đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng
thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc
mơ...
Hưng
Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Là người Việt Nam không ai không
biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói
ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ
thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu
thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại
thương cho phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính
quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy
vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công
bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới
đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang
đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp
hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi
tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái
vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh,
sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.
Nhìn từ bên ngoài:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật bên trong, văn
hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người
thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những
lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ
bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần
quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp
của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những
tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít,
còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt
phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời
cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ
Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo
rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù
đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết
thế nào.
Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những
làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi
thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê
sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời
mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ
con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài
gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới
chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã
hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để
sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo,
so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh
hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn
lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ
được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là
lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê
kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như thế bài thơ
của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày
sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi
tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái
tình, tình người muôn thuở.
Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền
tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng
triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời
những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như
đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa
khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói
đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ
phú...
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được
ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp
Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu
thích, trong đó có bài “Quê nghèo” của Phạm Duy mà tôi có
cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình,
cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre
còm tả tơi”…
Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không
còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng
chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào
lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát
những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác
xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp
tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì
thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng lặn mất tăm trong
tâm trí của tôi.
Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại
hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một
thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn
như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên
câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn
thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ
kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân
quê tôi:
Vẫn lác đác
nhà tranh
Vẫn tiếng thở
dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm
chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam
lũ
Mẹ một đời
chắt chiu
Khoai sắn vẫn
len vào giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu
thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo
nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng.
Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà
tranh thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn
tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn
chát” thì
không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc
kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo
không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp
nối:
Khoai sắn vẫn
len vào giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:
Tuổi thơ tôi
đói ngủ
Thương cánh cò
bấu bíu lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả
bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh
cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là
những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…
Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc
tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy
với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt
quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả tơi, những ông già rách
vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:
Chiều rơi thoi
thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng
bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm
ngô đầy
Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có niềm vui là nồi cơm độn
đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào
giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:
Có tiếng o
nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ
bùi ngùi
Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện
đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no,
hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm
ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một
vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan
trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến”
vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở
dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là
cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được
phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:
Dăm ba nải
chuối
Vài mớ rau
tươi
Mẹt sắn, mẹt
ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ
tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà
đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng
thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân
tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước: Muốn cho gần chợ mà
chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo
ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô
thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm
người bán
Lẻ tẻ mấy
người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên
chợ đang tàn tạ không còn chút sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê
xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa
cõi lòng khi thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như
con cá mắm
Lũ trai mặt
mũi mốc meo
Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi
nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió đẩy… về rẫy
ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: “cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu
bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang
khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán
đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và
nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra
phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc,
thịt mềm như thịt gà con luộc..." (trích Chiều chiều).
Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt
được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả
sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng
thương kia.
Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh
mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo
đời như chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn
chân trên đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?
Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi
từ thời chị Dậu
Tiếng oan
khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc
quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng
làng dựng lên thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài
ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên
để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối
liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh,
ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người
lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp
giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở
nơi xa
Nhưng khi về
đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu
cảnh mơ màng
Hiện ra khi
thoáng cổng làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại
xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người
khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê
tông cốt thép
Ngạo nghễ
tượng đài
Ngạo nghễ trần
ai
Và chính vì thế, người ta đâu biết:
Chiếc cổng
làng thành tai hại
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc
mơ.
Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba
tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa
hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự
đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước
mơ!
Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ
ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí
có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của
Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón
nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên
những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với
làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy
cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát
cảnh đói nghèo.
Sài Gòn 17-06-2016
NGUYỄN BÀNG
Email: bnguyen37@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” - XÓT XA NHỮNG TIẾNG LÒNG
Ngoài kia Ngâu đang rả rích. Trong
này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân
Xuyến!
Mà cũng lạ, cái quê này ở đâu vậy
nhỉ? Cố tìm một địa danh mà chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê
Nghèo cũng liên tưởng đến quê mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc,
xa thương gần lại càng thương.
Tác giả đã nói hộ mọi người:
Quê tôi nghèo
lắm
(…)
Cha cả đời lam
lũ
Mẹ một đời
chắt chiu ...
Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm
nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam
lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây
làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của mình nhưng có
ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa trọn!
Khoai sắn vẫn
len vào giấc ngủ ...
Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ
nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn
cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không
làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên đi nó càng
luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh
cò (còn phải) bấu bíu lời ru!
Câu thơ đến đây làm nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh
cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của mình.
Có người nói: muốn biết vùng ấy thế
nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,
Dăm ba nải
chuối
Vài mớ rau
tươi
.
Lèo tèo dăm
người bán
Lẻ tẻ mấy
người mua.
.
Ế bán
Chán mua
Lại một lần nữa cách diễn tả như vế
đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn
Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là
ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa hồn vào Quê
Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.
Thương con cò
con vạc
Mỏi cổ chồn
chân trên đồng đất của mình.
Người nông dân thua trận ngay trên
quê mình, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy.
Đặng Xuân Xuyến
ơi:
Ngoài thềm rơi
cái lá đa
Tiếng rơi rất
mỏng như là rơi nghiêng”
- (Trần Đăng Khoa)
Đặng Xuân Xuyến đã làm tôi liên
tưởng so sánh về sự hòa hồn với quê hương tới mức đồng thể!
Ngạc nhiên thật. Thơ không giấu được
về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và công bằng.
Bẵng đi... đến thời nay (mặc dù tạm
quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):
Chiếc cổng
làng dựng nên thật đẹp
Ngạo nghễ
tượng đài
Ngạo nghễ trần
ai...
Để:
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc
mơ!
Quê tôi nghèo
Nghèo (đến) cả giấc
mơ!
Đúng là hình ảnh làng văn hoá, đổi
mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn làm vậy. Rất
may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi nghèo! Ta đã
thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng thèm thích
nghi nữa.
Con cò: bấu víu lời
ru
Con người: nghèo cả
giấc mơ!
Mơ chả mất tiền, không ai đánh thuế,
bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời ......
Ngoài kia giọt
mưa thu đã ngừng rơi
Còn trong lòng
mưa vẫn rơi sùi sụt!
Thương cho những quê nghèo với những
xót xa tiếng lòng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, t/p Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”
- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -
Bài này (Quê Nghèo)
nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến
Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa
khác hơn một tý: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như
Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.
1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không
bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy
luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ
dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực
tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ,
câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải
mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác
giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến
quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một
cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ
nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo
lắm
Phiên chợ còn
èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải
chuối
Vài mớ rau
tươi
Mẹt sắn, mẹt
ngô
Í ới mời chào
cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm
người bán
Lẻ tẻ mấy
người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê
xác xơ già cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo
lắm
Nước mắt rơi
từ thời chị Dậu
Tiếng oan
khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc
quánh
Không biết do tác giả có
tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.
3/ Dòng chảy
của tứ thơ:
Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là
câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ
nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ
hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ;
cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc
nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu thơ
nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ -
nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và
do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.
Đôi Lời Với
Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách
làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh
rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều
người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số
trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước”
cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”;
tôi thường đi sau thiên hạ một bước.
Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ
tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn
khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm
thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ
ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài
thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia
quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức
gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người
bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật
thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.
Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã
có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi
nói đến ở bài 2 - anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng
khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp
toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn
cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục
“thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu,
không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ
hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chưa bàn đến hay, không
hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ
này:
“Chiếc cổng
làng thành tai hại
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc
mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc
mơ...”
Đây là chủ quan của tác
giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Cảnh quê nghèo này nó
nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét.
Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng còn nhiều người đói khổ, tuy
nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đã đổi đời, con em họ
được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xã hội. Tuy nhiên xã hội
nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt tích cực.
Với bác PHẠM
ĐỨC NHÌ
Dù cho tôi không biết
bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng
thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ
cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước”
cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”. Điều này chả ai giúp ai được
bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?
“Theo tôi, riêng về
phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình.”.
Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn nữa đưa ra những nhận xét tích cực chứ
hoàn toàn không hạ thấp người nghe.
Nếu nghe câu này chắc
chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình
ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa
mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng
chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn,
tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc
của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Tuy nhiên bác vẫn thừa
nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và
sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của
một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ
thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số
cộng.”
Nếu không thực sự yêu
mến nhà thơ thì bác ấy đã không mất công để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý
như là góp ý cho một đứa con trai.
“1/ Nhịp điệu: Số câu
trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện,
không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn
điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc,
tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó,
cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một
phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần: Tôi có
cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình
thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã
có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng
đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
3/ Dòng chảy
của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà
lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí
liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho
cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc:
Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế
trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời
rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ
cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác
giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.”
Dù muốn hay không muốn
bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân tình: “Không biết do tác giả có tài
hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”
Tôi không hiểu nhiều về bóng đá, và cũng chưa
có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nhì có một nhận thúc
khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc vẫn còn giữ
thói quen của những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể
thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần
để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn
kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi
sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc
“óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với
thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”
Với Cảnh Thư Sg:
Người thực sự chấp nhận
được sự suy nghĩ khác với mình là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời,
tôi không biết tác giả đã từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?
Nhưng lời bình dù chỉ
trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ
hiểu được điều này nên không lên tiếng phản bác?
Theo như bạn viết: “có
người đọc thơ cho là may rồi. Mà người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học
Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá
dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất
đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ rồi”.
Bạn nói rất đúng, nếu
không yêu thì bình làm chi? Còn việc bạn cho rằng : “Ở một cường quốc thơ
như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay không?
Đành rằng bây giờ không
chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: “người đọc thơ
cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay,
khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người
ngoại đạo thì tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng
của mình. Nhưng tùy theo trình độ và chuyên môn mà người bình có thể đánh giá
bài thơ đó theo cách riêng của họ. Còn theo bản thân tôi một bài thơ có ý tứ
hay người nghe cảm thụ, ngoài ra còn có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn
bát cú, thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái
hay, cái tài tình cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua
thơ người ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố
ai tìm được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!
Vài ý kiến của một người
ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không
đến tận nơi.
Ngày 05 tháng 04 năm
2018
NGUYỄN BÍCH THỦY
facebook: Nguyen Bich Thuy
VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh
việc mổ xẻ bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn
Bích Thủy ở Bỉ.
Tôi thích bài viết nầy vì lời văn
điềm đạm, dễ thương. Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của
nhà thơ Phạm Đức Nhì thì nhiều mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao,
đó là phong cách riêng của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu
chị Nguyễn Bích Thủy đã cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng
làng “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho
rằng “sau cách mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên
rằng nông dân đổi đời nầy thì phải nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là
người lớn lên ngay trong làng, chứng kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam
hãm đời người/ Tù túng giấc mơ” có khi còn hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến
nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không thấy phố không thấy
phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ” đã làm chế độ tẩy chay ông, phải
nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.
Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong
bài viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm
nhận về bài thơ Quê Nghèo:
“Quê nghèo là một
trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau
của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm
tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm
được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc
cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình
thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ
nhiều hơn thế.”
Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc
cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá
nữa mà là biểu tượng của tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương
thảm thiết về nỗi đau đã đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng
làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai”
cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ lụy cho người nông dân.
Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một
bài thơ hay trong một vài trang giấy.
Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài
góp ý nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến”
của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:
“Bài thơ “Quê Nghèo”
không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi
vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn
bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo
lắm
Nước mắt rơi
từ thời chị Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc
quánh
Chiếc cổng
làng dựng lên thật đẹp
Giam hãm đời
người
Tù túng giấc
mơ.
Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ
thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam
hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi
đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật
chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”,
nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người
nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.”
Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau vì tôi
thấy mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.
Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả Nguyễn
Bích Thủy bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY
Với bài viết Vài
Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô
Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu
Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình
Thơ Không Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô thiên về cảm tính
nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính thuyết phục, vẫn còn
vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề. Bài viết này chỉ nhắm
vào những điểm cần thiết đó.
Nguyễn Bích Thủy:
Chưa bàn đến hay, không hay nhưng
tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả. Tôi
nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Phạm Đức Nhì:
Nếu cô Nguyễn Bích Thủy chỉ nói “nhưng
tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay
không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu
“Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế
khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại thơ
ấy không đáng để ý, không phải là thứ thơ mà nhân loại đang hướng
tới.
Dĩ nhiên trong thơ cũng có những
nhân tố khách quan, nhưng những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả là chính.
Nhiều khi những cái khách quan được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi bật những ý
nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả. Chính “chủ quan của tác giả” mới
làm bài thơ có cá tính (không chỉ viết về những cái ai cũng biết rồi), mới làm
nên giá trị của bài thơ, miễn là những “chủ quan của tác giả” hợp lý hợp
tình và những sự kiện khách quan cũng hợp tình hợp lý.
Câu nói của cô Nguyễn Bích
Thủy có hai phần; phần đầu đúng, còn phần sau thì sai nặng.
Nguyễn Bích Thủy:
Dù cho tôi không biết bác là ai,
nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá
chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác
nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để ‘mách nước’ cho anh bứt
phá chạy mau đến ‘bến bờ thi ca’”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự
nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?
Phạm Đức Nhì:
Thích bóng đá nên có một thời gian ngắn tôi được một
người bạn mời đi xem những trận đấu của các đội tuyển xã tranh vô địch cấp
huyện. Mục đích của anh bạn là muốn nhờ tôi “xem giò, xem cẳng” những cầu thủ
trẻ. Nếu thấy em nào “đá có nét”, có triển vọng anh sẽ tìm cách rủ rê, mời gọi
về làm lực lượng trừ bị cho đội tuyển của một ngành công nghiệp. Anh cho tôi
biết hãy chú trọng vào cách giữ bóng, che bóng, đi bóng, lừa bóng, khả năng sút
bóng xa của các em, còn những kỹ thuật khác khi tuyển về sẽ huấn luyện thêm.
Trong thơ cũng vậy. Có thể nói
ngoại trừ cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc mà nếu lên đến đỉnh điểm khi bài thơ
có cao trào sẽ thành hồn thơ - là không ai có thể dạy ai đưa nó vào bài thơ
được. Còn thì - đặc biệt ở phần thi pháp, mang tính kỹ thuật - cái gì cũng có
thể học hỏi được. Dĩ nhiên, học là học lý thuyết. Bước vào thực hành, mỗi người
một vẻ, kẻ thất bại, người thành công, chẳng ai dám nói mạnh.
Riêng với Đặng Xuân Xuyến, tôi đã
“xem giò, xem cẳng”, đọc thơ của anh khá nhiều và đã “chấm” sự đột phá trong
thi pháp của anh. Trong bài Quê Nghèo, về hình thức anh đã
đạp đổ truyền thống, vượt qua thơ mới, đang trụ ở thơ mới biến thể mà những sợi
dây níu kéo đang đứt dần để vươn tới một thể thơ “chưa có tên” - vần vừa độ
ngọt, tứ thơ thông thoáng, nhịp độ thay đổi theo cảm xúc đang chảy thành dòng
... - nếu viết trong tâm thế cực kỳ phấn khích có thể thẳng hướng “Bến Bờ
Thi Ca”.
Những khuyết điểm, sai phạm về mặt câu chữ, ngay cả thế
trận cũng có thể sửa chữa không mấy khó khăn, nhưng cái tay nghề vững vàng đã
trở thành thói quen trong thi pháp của anh không thể một sớm một chiều mà có
được. Nếu Đặng Xuân Xuyến nghe lời “mách nước” của tôi, nhận ra khả năng và thế
mạnh của mình, anh sẽ tự tin hơn khi viết những bài thơ kế tiếp. Với thơ thì
không nói chắc được, nhưng anh Đặng Xuân Xuyến còn trẻ, thời gian dành cho thơ
còn dài, việc để lại cho đời một đôi bài thơ sáng giá không phải là điều không
tưởng.
Cô Nguyễn Bích Thủy cho rằng: “Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên
như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương” là do cô đọc thơ chỉ như
người “cỡi ngựa xem hoa”, chưa đi sâu nên chưa hiểu, chưa biết.
Nguyễn Bích Thủy:
Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đầu
tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người
đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn
hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh,
có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên
cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng
người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Phạm Đức Nhì:
Bình thơ là công việc nặng tính chủ
quan. Người bình đem kiến thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của mình để thẩm
định giá trị nghệ thuật của bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít những tác
phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ - “dù là cảm xúc của từng người” - đều có chỗ
hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ sai phạm. Nhiệm vụ của người bình là chỉ ra
những chỗ hay, vạch ra những chỗ dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân nhắc, khen,
chê bài thơ cho đúng mức.
Thí dụ bài Quê Nghèo của
Đặng Xuân Xuyến, tác giả đã có mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Và “Lũ Trai”:
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Còn “lũ con gái” thì sao? Đặng Xuân
Xuyến đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ
sai phạm.
Câu thơ: “Tù túng giấc mơ” trong đoạn: Chiếc cổng làng
thành tai hại/ Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ. theo tôi, thật tuyệt
vời. Nhưng đã làm 2 câu: Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ. mất tính bất ngờ và nhạt hẳn đi về
mặt ý nghĩa. Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có thể nói
trong Quê Nghèo đội của Đặng Xuân Xuyến đi bóng, lừa
bóng, chuyền bóng rất điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương thay vì
ghi bàn thắng lại đá ra ngoài.
Tôi, ở đây không bình thơ mà chỉ bàn
đôi chút về thi pháp nên không đi sâu thêm nữa. Còn nói như cô Nguyễn Bích
Thủy “nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì”
thì đúng là một phát biểu kiểu “điếc không sợ súng”. Cô chỉ cần tìm đọc
kỹ vài bài thơ mới thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ nào.
Nguyễn Bích Thủy:
“người đọc thơ cũng chả ai
được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay,
chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!”
Phạm Đức Nhì:
Những người đã lỡ yêu thích thơ, nếu
có cơ hội, đều muốn tìm học để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ thưởng
thức thơ của mình. Trong những lúc họp mặt bạn bè, đám tiệc, nói chung là trà
dư tửu hậu, có nói đến bài thơ tình này, bài thơ thế sự kia thì cũng biết đôi
điều góp chuyện. Chứ cứ như cô Nguyễn Bích Thủy “thích thì đọc; đọc
xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” lỡ nguời ta
hỏi “Hay ở chỗ nào? Tại sao hay? Dở ở chỗ nào? Tại sao dở” lại ngớ mặt
ra im lặng thì ngượng chết.
Thưởng thức thơ có nhiều trình độ.
Muốn nâng cao trình độ của mình không gì bằng tìm hiểu thi pháp. Chữ thì hơi
cao siêu nhưng nghĩa thì lại đơn giản - chỉ là kỹ thuật thơ hoặc hình thức, vóc
dáng của bài thơ.
Tôi nhớ hình như đã viết ở đâu đó:
Có tý hiểu biết về kỹ thuật,
các tiêu chí để thẩm định giá trị thi ca, người đọc sẽ không còn ù ù cạc cạc
khi đọc, khi nghe hoặc ngâm nga những vần thơ ưa thích mà sẽ tự tin hơn, sảng
khoái hơn thả hồn vào dòng thơ. Đọc thơ bằng trí sẽ không thấy được hơi nóng
cảm xúc, sẽ không cảm được cái hay trọn vẹn của thơ, không “bắt” được hồn thơ
(nếu có). Còn nếu chỉ đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng của kiến thức thì
một là, có khi gặp tuyệt tác thi ca thì lại dè bỉu, chê bai, hai là, suốt đời
“tự sướng”, sướng mà không biết vì sao mình sướng, miệng ngâm nga những vần thơ
“cả đẩn” mà mắt cứ sáng long lanh, mặt cứ rạng rỡ như đóa hoa xuân. Đó là cái
sướng của những kẻ “ngây ngô hưởng thái bình” rất tội nghiệp, rất đáng thương.
Trong quân đội người ta thường nói “Nhìn quân phục
biết tư cách”. Thi pháp quan trọng đến mức trong thơ, theo tôi, câu tương
tự sẽ là: “Nhìn thi pháp biết đẳng cấp của thi sĩ”
Nguyễn Bích Thủy:
Vài ý kiến riêng của một
người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá
không đến tận nơi.
Phạm Đức Nhì:
Cô Nguyễn Bích Thủy đừng lo. Trong
tranh luận văn chương, nếu cứ nhắm vào đối tượng tranh luận mà bàn cãi thì dù
đúng hay sai cũng được độc giả hoan nghênh, vì bất cứ cuộc tranh luận văn
chương lành mạnh nào cũng đem lợi ích đến cho văn chương, cho độc giả và cho cả
đôi bên tranh luận. Miễn là đừng nhắm vào “chủ thể đối luận” mà phang, mà bửa -
nghĩa là đừng chơi trò bỏ bóng đá người. Chơi kiểu đó thì dù ở Bỉ hay chui vào
hang sâu hố thẳm nào đó ở Thái Bình Dương người ta vẫn ném đá. Và đã ném là
trúng đích.
Kết Luận
Qua bài viết Vài Ý Kiến
Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn
Bích Thủy đã bộc lộ khá rõ một điều. Những gì cô cảm nhận - về mặt tình - rất
chính xác và sâu sắc, chứng tỏ cô có một tâm hồn nhạy bén và có nhiều trải
nghiệm về mặt tình cảm trong cuộc sống. Nhưng những phát biểu của cô liên quan
đến mặt lý - ở đây là sự hiểu biết về thơ - thì lại mắc nhiều sai sót. Chỉ cần
có thêm chút ít nội lực ở phần này những “góp ý” của cô không những sẽ được độc
giả đặc biệt hoan nghênh mà, đối với thơ, lại còn là những đóng góp rất hữu ích
nữa.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét