TPO
- Lâu nay, có một chuyện buồn trong chiến tranh được truyền miệng, về một đứa bé sơ sinh bị ngạt
thở, đã hy sinh tính mạng để cứu nhiều người. Hóa
ra chính là chuyện đời nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn nổi tiếng.
Đứa trẻ là con gái của
Phạm Minh Tuấn, và bối cảnh hy sinh có khác với câu chuyện đồn đại một chút.
Ca
khúc mới nhất của Phạm Minh Tuấn là Tiếng gọi từ lòng đất
viết từ “lòng đất” Mỹ Lai, ca từ có câu “hài nhi đòi khóc”- liên quan đến nỗi
đau riêng tư lớn của nhạc sĩ. Còn Khát vọng của Phạm Minh
Tuấn là một trong những ca khúc Việt Nam đẹp nhất, khát vọng ra khát
vọng. Dưới đây là chuyện nhạc chuyện đời của một trong những nhạc sĩ Việt Nam
thành công nhất.
TIẾNG GỌI TỪ LÒNG ĐẤT MỸ LAI
Nghe
nói “Tiếng gọi từ lòng đất” được ông
viết khá nhanh. Người dân Quảng Ngãi đón nhận
nó thế nào?
Tôi
viết hơn một tháng thì xong. Cuối năm 2016 khi chị Trương Ngọc Thủy (Chủ tịch
Quỹ Hòa bình Mỹ Lai) và Minh Hạnh (nhà thiết kế) mời tôi đi thực tế ở Mỹ Lai,
tôi ngại lắm, chần chừ vì mình lớn tuổi rồi sợ viết không ra sao.
Tôi
đọc sách về vụ thảm sát, đi bảo tàng, tiếp xúc với các nạn nhân, nhân chứng
sống sót của vụ thảm sát như anh Phạm Thành Công, cố gắng đạt tiêu chí, kỳ vọng
của mọi người. Bài hát hoàn thành, các chị ấy đề xuất Cao Minh hát, tôi thấy
phù hợp. Tiếng gọi từ lòng đất vang lên từ dịp tưởng niệm
năm ngoái. Năm nay chẵn 50 năm thảm sát Mỹ Lai vẫn Cao Minh thể hiện trong lễ
tưởng niệm, nghe xong nhiều người rơi nước mắt. Sự đón nhận của người dân Quảng
Ngãi đối với bài hát khiến tôi rất vui.
NHIỀU VỤ THẢM SÁT KHÔNG CHỈ MỸ LAI
Nhiều vụ thảm sát trong chiến tranh không chỉ Mỹ Lai?
Vụ Mỹ Lai chỉ lớn nhất mà thôi?
Đúng,
nhiều lắm.
Tôi
nhớ năm 1961 lần đầu về vùng giải phóng ở Trảng Bàng, Tây Ninh, có dự một “giỗ
hội” phục dựng vụ thảm sát thời kháng Pháp. Pháp bỏ bom chết cả ấp cả làng, tôi
phải đi ăn giỗ hết nhà này nhà kia. Không ngờ từ thời Pháp đã có một cái làng
chết cả như thế, bởi bom đạn.
Tới
chống Mỹ thì không chỉ Mỹ Lai đâu. Ít nhất ở Điện Bàn, Quảng Nam có vụ lính
Nam Hàn sát hại dân lành. Năm 1964 tôi về xã Tân Hào, Giồng Trôm, Bến Tre. Đoàn
Văn công Giải Phóng mà tôi là một chiến sĩ đóng quân ở đó, rút quân hôm trước
thì hôm sau bàng hoàng biết họ sát hại cả một cái làng! Thảm khốc lắm. Các em
nhỏ đang học bị bỏ bom chết hết.
Năm
1963 xảy ra thảm sát ở ấp Cầu Xe, xã Hưng Thuận, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh do
Mỹ tiến hành. Nhạc sĩ Xuân Hồng có bài hát Qua trường Cầu Xe đầy
xúc cảm về vụ này. (Trường học cũng bị bỏ bom như vụ Giồng Trôm). Trước đó năm
1960 ở Tây Nguyên, Mỹ - Diệm gây ra vụ phát gạo tẩm thuốc độc cho dân. Chết
nhiều lắm.
Nói chung thảm sát nhiều,
không chỉ Mỹ Lai. Họ giết dân để triệt tiêu lực lượng bổ sung cho quân giải
phóng và lực lượng nuôi giấu cách mạng, loại trừ mầm mống sau này. Và để dằn
mặt những người định theo quân giải phóng.
“BÀI CA KHÔNG QUÊN” – NHẬT KỸ BẰNG ÂM
NHẠC
Về
“Bài ca không quên”, quả là những dòng nhật ký sâu thẳm bằng âm nhạc của ông và
đồng đội- đúng như ông nói.
Bài
ca không quên là nhật ký ghi lại
một thời chiến đấu của tôi và đồng đội, đồng thời nhắc nhở mọi người về ký ức
đó, đừng bao giờ quên; rằng dù gì cũng phải giữ vững tư thế của người chiến sĩ
để vượt qua khó khăn, cụ thể hồi đó mất mùa phải ăn bo bo, rồi chiến tranh biên
giới...
Bài hát sáng
tác từ thập kỷ 80 thế kỷ trước, bây giờ tính thời sự vẫn đó?
Đó
là nhận xét của nhà báo, tôi không dám khẳng định nhưng nhiều người nói mỗi khi
nghe bài hát họ lại dâng đầy cảm xúc, nhớ kỷ niệm xưa, để rồi có niềm tin giúp
vượt qua thử thách hiện tại. Thật may mắn và hạnh phúc cho tôi vì bài hát được
yêu thích từ thế hệ này sang thế hệ khác như vậy.
“THON THẢ GIỌT ĐÀN BẦU” VÀ “CÁC ANH KHÔNG
VỀ MÌNH MẸ LẶNG IM”
Nếu “Bài ca không quên”
bước ra từ một bộ phim để rồi đem lại
vinh quang cho nhiều người: Cẩm Vân (hát) , Thương Tín (đóng bộ
phim mà ca khúc nền chiếm 50% thành công của phim)... thì “Đất nước”
được ông viết chật vật hơn? Ông và nhà thơ Tạ Hữu
Yên từng giải thích vì sao lại “ba lần tiễn con đi hai lần
khóc thầm lặng lẽ”. Mong ông phân tích thêm về ca từ lắng đọng sâu
sắc và giai điệu trầm hùng khiến “Đất nước”
trở thành bài hát “đinh” và đỉnh
trong các chương trình?
Năm
1984 tôi được đọc bài thơ Đất nước tôi của Tạ Hữu Yên,
ảnh mất rồi. Tôi thấy hay. Thơ rất tình cảm, rất hùng tráng nhưng lại đi vào
chi tiết, nặng về tình tự dân tộc. Khác với cách viết của nhiều người về đất
nước. Ngôn ngữ dịu dàng đằm thắm rất Việt Nam, và cho thấy tầm vóc đất nước
mình qua 4000 năm lịch sử.
Bắt
tay vào phổ thơ từ 1984 nhưng viết hoài mà không ra hồn gì cả. Năm sau, kỷ niệm
10 năm thống nhất đất nước, tôi đầu tư tiếp và rồi cũng hoàn thành. Người hát
đầu tiên là Ngọc Tân. Đến năm 1988 Thế Hiển mang ra Hà Nội biểu diễn, từ đó bài
hát được cả nước biết và đón nhận đến giờ như bạn nói.
Tạ
Hữu Yên mở đầu bài thơ Đất nước tôi bằng câu Đất nước tôi thong thả giọng đàn bầu. Tôi thấy cũng được nhưng
muốn chỉnh một tí: Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu.
Đàn bầu chỉ một dây, giọt trong vắt, vang lên trầm bổng, thanh thoát, đẹp, rót
vào tim vào óc người Việt kể cả ở hải ngoại. “Giọt” và “thon thả” là hình ảnh
rất gợi: dáng hình đất nước chữ S, dáng hình người phụ nữ Việt Nam.
Câu này nữa của Tạ Hữu Yên: Ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về nhà mẹ
ba gian. Với sự nhạy cảm của người biểu diễn trên sân khấu, tôi thấy hát
Các anh không về nhà mẹ ba gian nó thế nào ấy còn ca sĩ
thấy ngường ngượng. Nhà ba gian là cách đền ơn đáp nghĩa của chế độ cho người
mẹ có con hy sinh. Nhà có thể ba gian có thể một gian, cái chính là mẹ lủi thủi
ra vào lặng lẽ không có ai tâm sự, chia sẻ, ba đứa con lên đường thì hai không
trở về. Cho nên tôi viết: Các anh không về mình mẹ lặng im.
ĐẤT
NƯỚC TÔI SÁNG NGỜI MUÔN THỞ “KHI TRĂNG ĐÃ VÀO CỬA SỔ ĐÒI THƠ”
Câu kết thật bất ngờ, độc đáo trữ tình: “Đất nước tôi
sáng ngời muôn thuở, khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ” là của ông chứ không phải
Tạ Hữu Yên, và vì sao ông chọn cách kết như vậy, kể cả trích thơ Hồ Chủ tịch?
Thời
điểm 1985 ta trải qua chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc phức tạp,
nếu nói quá nhiều về sự mất mát thì nhiều vị chức sắc không vui đâu, thậm chí
cấm đoán không chừng. Làm thế nào, vì sao bài hát sống được? Thì nó phải kết
bằng một câu thơ có sức nặng và không thể ai phủ định!
Câu
kết đó- Đất nước tôi sáng ngời muôn thuở, khi
trăng đã vào cửa sổ đòi thơ vừa đẹp vừa vững vàng, như lời khẳng định:
Đất nước ta từ khi có Đảng có Bác đã trở thành đất nước Việt Nam như hôm
nay. Âm hưởng rất trữ tình. Bài hát này cũng giống như một bài thơ! Thơ với
nhạc quyện chặt, kể cả thơ Bác Hồ. Tôi chưa từng phân tích với ai về câu kết
này cho đến khi bạn hỏi.
NỖI ĐAU
Trong bài hát mới nhất của ông- “Tiếng gọi từ lòng
đất” có câu “Đây những mồ hoang lạnh buốt/ Đây những hài nhi đòi khóc”. Đó là
ca từ cất lên từ nỗi đau thầm kín của ông về đứa con đầu đã mất, một sự hy sinh
lớn?
Vào
năm 1964 con gái tôi được 6 tháng tuổi, tôi lúc ấy cùng Đoàn Văn công Giải
Phóng biểu diễn ở Bến Tre. Bạn biết là chiến tranh, nuôi con nhỏ trong rừng thì
thiếu thốn đủ thứ. Thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, rồi lấy sữa đâu cho nó ăn.
Phụ nữ sống trong rừng thường mất sữa do ăn uống có gì đâu, rồi sốt rét, rồi
bom đạn. Cháu được uống nước cơm pha với đường, thỉnh thoảng lắm mới có sữa. Mà
chạy càn liên tục, di chuyển liên tục. Nuôi rất khó.
Hôm
đó tôi đi công tác, có bàn với vợ là tìm cách đưa con về quê nhờ bên ngoại nuôi
giùm. Chúng tôi chuẩn bị ra vùng giáp ranh, ở đó người của nhà ngoại đã sẵn
sàng đón cháu về.
Trên
đường hành quân không ngờ vợ tôi lọt ổ
phục kích! Trong đoàn có 18 cán bộ đi cùng ba phụ nữ. Đêm trước trực thăng địch
đáp xuống xong bay đi, mình tưởng nó rút hẳn hóa ra nó đổ quân xuống ém lại đó
để phục kích nhưng mình không nắm được thông tin.
Bị
phục kích, khi súng nổ thì bé khóc. Vợ tôi phải ém nó bằng cách nằm rạp xuống
và ấn vú cho con bú, để che mắt địch. Êm tiếng súng nhìn lại con thì nó bị ngộp
thở. Cháu mất.
18
cán bộ thoát còn ba phụ nữ bị bắt! Ngoài vợ tôi còn vợ nhà thơ Giang Nam từ Nha
Trang vào chiến khu Tây Ninh thăm chồng, chưa thăm được thì bị bắt, và một cô
xướng ngôn viên tiếng Hoa của Đài Phát thanh Giải Phóng.
Con tôi được để lại bờ mương.
Đến tối du kích đưa bé đi chôn. Lính lôi ba phụ nữ lên trực thăng về Tổng Nha
cảnh sát Sài Gòn tra khảo mấy tháng trời.
Ba
cô thống nhất khai: Ở dưới quê đi tìm chồng bỏ nhà đi đâu không biết. Trước sau
một mực như vậy, cảnh sát không tra khảo được gì, không manh mối nên đành thả.
Vợ ông Giang Nam
về lại Nha Trang.
Có
điều hay là: Được thả, cô người Hoa về nhà ở quận 11, vừa về buổi sáng thì
chiều đã có người liên lạc. Chứng tỏ cơ sở theo dõi biết hết. Họ đưa luôn về Củ
Chi để cổ viết báo cáo, tường trình vụ bị bắt. Sau 1,2 tháng như vậy thì được
tiếp tục công tác.
Ông
già tôi thời kháng Pháp đi Vệ quốc đoàn chiến đấu hy sinh ở Châu Đốc, An Giang
năm 1946. Đến giờ gia đình tôi vẫn chưa tìm ra nơi chôn cha và con gái tôi.
KHÔNG PHẢI DƯỚI HẦM
Xin chia sẻ với ông nỗi đau lớn và hẳn khó nguôi
ngoai. Nhiều người cũng được nghe đồn câu chuyện đau lòng trong chiến tranh về
một cháu bé sơ sinh phải hy sinh tính mạng để cả đoàn cán bộ được sống, không
ngờ chính là chuyện đời nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn nổi tiếng. Về bối cảnh, lâu nay
vẫn nghe truyền miệng là cháu bị ngạt khi đang ở dưới hầm. Hóa ra không phải
hầm?
Không
phải hầm. Lúc đó vợ tôi và đồng đội phải trốn trong cái hốc trên đường mòn,
chung quanh nhiều kênh rạch. Vợ tôi là diễn viên kịch Đoàn Văn công Giải
Phóng. Câu Những hài nhi
đòi khóc tôi viết trong Tiếng gọi từ lòng đất đúng
là liên quan đến số phận đứa con đầu sinh năm 1964. Đòi khóc vì không được
khóc.
HỄ
CHIẾN DỊCH MỞ LÀ CHÚNG TÔI LÊN ĐƯỜNG
Trong chiến tranh ông có chiến đấu đúng nghĩa không?
Tôi
không trực tiếp ra mặt trận nhưng luôn đi ngay phía sau để phục vụ bộ đội. Đi
qua những vùng đất trắng, rải chất dộc da cam nên cũng mang họa, giờ mỗi tháng
được hơn 1 triệu tiền chế độ nạn nhân da cam. Phải ráng sống thôi.
Hễ
chiến dịch mở là chúng tôi lên đường. Hoặc bộ đội về là mình tới phục vụ. Nguy
hiểm không ít đâu vì bom đạn có chừa ai đâu. Tôi hát, chơi đàn, sáng tác, cất
giữ tư liệu thực tế để viết. Lòng say mê sáng tác thôi thúc tôi viết từ sớm: Qua sông, Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn, Dấu chân phía trước...
Ông
có sự nghiệp cách mạng trọn vẹn còn cha ông- liệt sĩ kháng Pháp. Về cuộc sống
và xã hội hiện nay, có khi nào ông nghĩ nó chưa hẳn xứng đáng với sự cống hiến
hy sinh của mình và đồng đội?”
Một
nhà triết học tôi quên tên có nói một câu tôi thấy thấm thía, trở thành phương
châm sống của mình: “Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”.
NỖI BUỒN KHÁC
Sự lan tỏa các ca khúc Phạm Minh Tuấn là điều không
cần chứng minh. Song vừa qua, ông trượt Giải thưởng Hồ Chí Minh? Nhiều đồng
nghiệp khả kính ví dụ Doãn Nho lấy làm tiếc việc ông hụt giải ở tuổi 75 trong
khi nghe nói một hai đồng nghiệp cùng vùng miền được phép bỏ phiếu lại không
ủng hộ ông lắm? Còn ông có biết tỉ lệ ủng hộ dành cho mình cao thấp thế nào?
Những
người thuộc diện xét giải lần này đều nhận được văn bản trả lời của tổ chức
hoặc hội đồng chấm giải, riêng tôi không hề. Nói không buồn thì không đúng.
Thôi coi như học tài thi phận. Trong tôi vẫn có niềm vui là tác phẩm của mình
được nhân dân yêu mến, ghi nhận.
Cuộc
sống sau hòa bình đúng là gian nan và nhiều vấn đề. Riêng tôi, cả niềm vui nỗi
buồn, lúc thành đạt hay lúc lắng xuống thì Bác Hồ luôn là niềm tin là cứu cánh
để vượt qua khó khăn. Một niềm tin tuyệt đối, dù tôi chưa bao giờ gặp Bác. Năm
1974 tôi lần đầu ra Bắc, khi ấy Bác mất đã 5 năm.
Cảm
ơn nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn đã chia sẻ những câu chuyện đặc biệt trong tháng Tư
này.
MỘT “KHÁT VỌNG” RA KHÁT VỌNG
Khát
vọng của Phạm Minh Tuấn được phỏng
theo bài thơ Nhờ Đảng, tôi biết được của Đặng Viết Lợi
(tên khác: Đặng Việt Lợi) in báo Tuổi Trẻ ngày 2/2/1985.
Về thủ pháp nghệ thuật của Khát vọng, Phạm Minh Tuấn chia
sẻ với phóng viên Tiền Phong:
“Nhiều
ca khúc khác của tôi được đánh giá là rất đẳng cấp về kỹ thuật còn Khát vọng viết rất khúc chiết, khúc thức đàng hoàng câu cú chặt
chẽ, có vào có ra, có kết có Coda (Cô-đa)... Tôi muốn sự tròn trịa, một khát
vọng ổn định nhất kinh điển nhất. Bài ca không quên, Đất nước...
có thủ pháp và khúc thức mở rộng còn đỉnh cao của Khát vọng
chính là sự chặt chẽ về khúc thức, đỉnh cao của thủ tháp cổ điển, kinh điển. Có
mở đầu có Cô-đa, tức là kết bổ sung. (Kết xong, muốn củng cố cái kết đó phải có
Cô-đa). Ca từ rất Việt Nam
rất dân tộc nhưng không nệ cổ”.
Vâng,
không nệ cổ và hoàn hảo từ ca từ trở đi đây, khát vọng ra khát vọng đây:
Hãy
sống như đời sông, để biết yêu nguồn cội
Hãy sống như đời núi, vươn tới những tầm cao
Hãy sống như biển trào, để thấy bờ bến rộng
Hãy sống và ước vọng, để thấy đời mênh mông.
Và sao không là gió, là mây để thấy trời bao la
Và sao không là phù sa dâng mỡ màu cho hoa
Sao không là bài ca của tình yêu đôi lứa
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư.
Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông
Và sao không là hạt giống xanh đất mẹ bao dung
Sao không là đàn chim gọi bình minh thức giấc
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư...
Hãy sống như đời núi, vươn tới những tầm cao
Hãy sống như biển trào, để thấy bờ bến rộng
Hãy sống và ước vọng, để thấy đời mênh mông.
Và sao không là gió, là mây để thấy trời bao la
Và sao không là phù sa dâng mỡ màu cho hoa
Sao không là bài ca của tình yêu đôi lứa
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư.
Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông
Và sao không là hạt giống xanh đất mẹ bao dung
Sao không là đàn chim gọi bình minh thức giấc
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư...
Ảnh: NGUYỄN
ĐÌNH TOÁN, tư liệu PHẠM MINH TUẤN
Bài: DƯƠNG PHƯƠNG VINH
Thiết kế: LINH ANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét