TS Nguyễn Ngọc Kiên |
KỈ NIỆM 30 NĂM LẦN
ĐẦU XUẤT BẢN TỪ ĐIỂN HOÀNG PHÊ
KỈ NIỆM 50 NĂM VIỆN
NGÔN NGỮ HỌC VIỆT NAM
KỈ NIỆM 10 NĂN VIỆN TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ
KỈ NIỆM 100 NĂM
NGÀY SINH NHÀ KHOA HỌC, GS – TS HOÀNG PHÊ (1919 – 2019)
1. Mở đầu
Trong “Phong cách học và đặc điểm tu
từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình Tú cho rằng, “khoa trương
là cách tu từ dùng sự cường điệu qui mô của đối tượng được miêu tả
so với những biểu hiện bình thường nhằm mục đích nhấn mạnh vào một
bản chất nào đó của đối tượng được miêu tả.” [4, tr. 204]
Theo Từ điển tiếng Việt nghĩa 2 thì
khoa trươngtr. là “cường điệu hoặc phóng đại quá sự thật để đạt hiệu quả nghệ thuật cần thiết.” [5, 503]
Theo Đào Thản thì “Cơ sở của phóng
đại là tâm lí của người nói muốn rằng điều mình nói ra gây được sự
chú ý và tác động cao nhất, làm người nhận hiểu được nội dung và
ý nghĩa đến mức tối đa.” [3, tr.2]
Theo chúng tôi, khoa trương
là cường điệu quy mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện
tượng miêu tả. Tuy nói quá nhưng vẫn
phản ánh được và đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
Khoa trương là
cách nói có thể tìm thấy ở các cấp độ từ,
cụm từ, thành ngữ, câu, tục ngữ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu việc
chú và giải thích các đơn vị từ của Từ
điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên và
nhóm cộng sự (Từ đây gọi tắt là Từ điển
Hoàng Phê).
2. Cách chú và giải thích
chỉ lối nói khoa trương trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
2.1. Phân loại khoa trương theo ý nghĩa
Căn cứ vào ý nghĩa, lối nói khoa
trương của người Việt được chia thành ba loại chính sau:
(1) Khoa trương phóng to
Khoa trương phóng to là cố ý làm cho
sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự
vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ (Các ví dụ
sau được trích dẫn từ “Chuyện Làng Cuội”
của Lê Lựu, sau mỗi ví dụ chúng tôi đều liên hệ với mục từ hay cụm từ trong Từ
điển Hoàng Phê để các bạn tiện liên hệ):
(1) Đi Tây “đường thẳng” cũng phải chạy
vạy mửa mật, chui cửa trước, luồn cửa sau, huống hồ “chen ngang”.
Theo Từ điển Hoàng Phê mục mửa mật
đgt (kng) thường dùng
sau đt). Mửa cả ra nước đắng, thường để
nói sự vất vả, nặng nhọc quá sức chịu đựng. Làm mửa mật. Đánh cho mửa
mật. [tr.625 ]
(2) Người các nơi đổ về cứ là đông
như khiến cỏ. [tr.489]
Từ điển Hoàng Phê mục kiến cỏ d.
Kiến nhỏ, thường sống trong cỏ, rác. Đông như kiến cỏ.
(3) Dạ, không ạ. Khi đi anh ấy có dặn
cháu là có ở chân trời góc biển nào thì cũng cứ mà yên trí, anh sẽ tìm đến.
Từ điển Hoàng
Phê mục chân trời góc bể, không
chú mà chỉ giải thích: chỉ nơi xa ăm, xa cách. [tr. 142 ]
(4) Mà ông còn đứng đây? Coi trời bằng
vung thật!
Từ điển Hoàng Phê mục coi trời bằng vung không chú từ
loại mà chỉ giảỉ thích: Ví thái độ chủ quan liều lĩnh, coi thường tất cả. [tr.
197]
(2) Khoa trương thu nhỏ
Khoa trương thu nhỏ là thu nhỏ sự vật;
tức là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ
đi, ít đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại hoặc yếu đi. Ví dụ:
(5) Làng nào xã nào cũng nhơn nhơn
tuyên bố: “Bọn Tây bốt Thiệt có biến thành những con chuột nhắt cũng không chui
lọt hàng rào để vào đây”.
(6) Hai ngôi nhà của vợ chồng anh và
của mẹ vợ trông như hai cái lều, cách nhau một vườn chuối rộng hơn một sào mà
anh vẫn tưởng cái gãi tai bên này tiếng thì thầm của vợ chồng anh ở bên này bên
kia đội vẫn nghe, vẫn biết.
(7) Mong ngày mong đêm cái giây phút
dắt đứa con đi cạnh chồng giữa thanh thiên bạch nhật, rốt cuộc cứ phải trốn lủi
cả người quen lẫn người lạ, cả ánh mặt trời và giật mình với cả tiếng lá rơi. Để
rồi sau khi ông tổng lên thăm bà Nhớn, mấy chữ của ông như những lưỡi dao chém
vào niềm hi vọng của cô về một đứa con có bố.
Trong Từ điển Hoàng Phê đều không có
các ví dụ về khoa trương thu nhỏ như “bé bằng mắt muỗi”, “gầy trơ xương”, “người
gió thổi bay”.
(3) Phân loại khoa trương theo thời
gian
Trong tiếng Việt, khoa trương thời
gian hay khoa trương theo trật tự nghịch là đem sự việc xuất hiện sau nói thành
việc xuất hiện trước hoặc đồng thời xuất hiện. Ý nghĩa của câu là “chưa thế
này thì đã thế kia” hoặc “vừa mới thế này đã thế kia”, chẳng hạn “ chưa ăn đã hết” “rượu chưa uống đã
say”, “chưa đến chợ đã hết tiền”. Tuy nhiên trong “Từ điển Hoàng Phê”,
chúng tôi chỉ thấy mục nghè d. Dùng trong dân gian để gọi người đỗ tiến
sĩ thời phong kiến. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng (tng). [tr. 675]
Ngoài ra, chúng tôi không thấy lối
nói này, mà chỉ thấy lối nói khoa trương thời gian: “trong chớp mắt” “trong
nháy mắt”, “thoắt cái”. Chẳng hạn, người Việt nói:
(8) Đến bao giờ bà mới thoát được nỗi
canh cánh lo sợ hơn cả giặc giã. Chỉ chớp mắt một cái là nó đã gây ra cái tai họa
tầy đình, chứ lâu la gì.
(9) Luật pháp và những chuẩn mực
nghìn đời cũng có thể thay đổi mười lăm lần trong một ngày. Chỉ cần mình muốn.
Con người đã muốn gì thì cái gì cũng có thể làm được trong nháy mắt.
(10) Bằng cách đối xử của con vợ mình
đêm hai vợ chồng đứng cạnh thằng Lăng ở miếu ông Cuội và sau đấy anh biết những
con đàn bà dù nhà quê nó cũng có khả năng biến hóa như con yêu tinh, thoắt cái
đã hiện ra nanh vuốt của quỉ dữ, thoắt cái lại dịu hiền ngây dại như trẻ thơ.
Từ điển Hoàng Phê mục nháy mắt
d. (kn). Khoảng thời gian rất ngắn (tựa như chỉ kịp nháy mắt. Chỉ nháy mắt
là làm xong. Trong nháy mắt. [tr. 707]
(11) Nó cũng có khả năng biến hái hóa
như con yêu tinh, thắt cái hiện ra nanh vuốt của quỷ dữ, thoắt cái lại dịu hiền,
ngây dại như trẻ thơ. [tr.328]
Từ điển Hoàng Phê mục thoắt t.
Rất nhanh chóng, đột ngột. Thoắt hiện ra. Thoắt cái đã làm xong. Thoắt ẩn
thoắt hiện. [tr. 947]
2.2. Phân loại khoa trương theo hình
thức
Căn cứ vào hình thức có thể chia khoa
trương thành hai loại: khoa trương trực tiếp và khoa trương gián tiếp.
(1) Khoa trương trực tiếp:
Khoa trương trực tiếp là khoa trương
không sử dụng bất cứ biện pháp tu từ nào, vì vậy nó còn được gọi là khoa trương
thuần túy. Ví dụ:
(12) Mả mẹ thằng chó dái câm mồm đi
bà còn đỡ lộn ruột.
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên và các cộng sự biên soạn (từ đây gọi tắt là Từ điển Hoàng Phê) mục lộn
ruột, không ghi từ loại và giải thích: Tức giận đến mức cảm thấy không thể
chịu được. Tức lộn ruột. Nghe mà lộn cả ruột. [tr. 583]
(13) Đ. Mẹ nó. Định ngoan cố. chúng
ông cắt họng.
Từ điển Hoàng Phê mục cắt họng
t (id) như cắt cổ t (dùng sau d
hoặc đ trong một số hợp). (Giá cả
hoặc mức lãi ) cao một cách đáng sợ. Bán với giá cắt cổ. Cho vay laĩ cắt cổ.
[tr.120 ]
(14) Tiếng ồn ã của dân chúng nói rằng:
“Các quan trên như quan huyện ta đây, dâm đãng, tham lam, vu oan giá hoạ, hà hiếp
dân chúng làm cho hàng ngàn dân làng điêu đứng, sống dở, chết dở, còn bẩn hơn
thằng ăn mày chứ”.
Theo Từ điển Hoàng Phê, mục sống dở
chết dở (kng). Lâm vào tình cảnh khó khăn đến mức điêu đứng. [tr. 868]
(15) Không tìm thấy con Việt Minh
cái, ông tùng xẻo mày!
Theo Từ điển Hoàng Phê, mục tùng xẻo
đt (khng). Lăng tri. [tr.1065 ]
(16) Trong lúc cả làng sôi sục chạy
đuổi “nhét cứt vào mồm con Xuyến”, làm con bé xanh xám mặt mũi, cắt không còn hột
máu, thằng Hiếu đứng ra chặn mọi người ôm lấy vợ bảo: - Em cứ bình tĩnh, đừng sợ.
Theo Từ điển Hoàng Phê, mục mặt cắt
không còn hạt máu, không chú, mà chỉ giải thích: Mặt trắng bệch hoặc tái nhợt
hẳn ra vì quá khiếp sợ. [tr. 620]
Khoa trương gián tiếp
Là khoa trương phải sử dụng các biện
pháp tu từ khác để thực hiện, còn được gọi là khoa trương dung hợp. Chẳng hạn:
+ so sánh có từ so sánh. Ví dụ:
(17) Ông hứa chắc như đinh đóng vào cột
gỗ lim rằng sẽ thu xếp để lấy cô làm vợ.
Trong Từ điển Hoàng Phê mục đinh
chú là d (danh từ), và đưa ví dụ giải thích: Chắc như đinh đóng cột (rất
chắc chắn, dứt khoát) [tr.323 ]
(18) Đêm đêm nhìn quầng lửa đỏ cháy rực
góc trời làng mình, nước mắt chảy ra như máu ứa từ ruột trào lên, hai hàm răng
cắn lại nuốt nước mắt như nuốt máu mình chảy vào miệng mình.
Từ điển Hoàng Phê mục cắn răng,
không chú từ loại. Cắn hai hàm răng lại cố chịu nỗi đau đớn; cố chịu đựng nỗi
đau không nói ra.. Cắn răng chịu đựng. Khổ đến mấy cũng cắn răng mà chịu.
[tr. 118]
Từ điển Hoàng Phê mục nuốt đt.
Tác giả nêu ví dụ: Nuốt hận. Nuốt giận làm lành. Nuốt nước mắt (b.; cam
chịu đau đớn trong lòng) [tr. 743]
(19) Tao nói cho thằng lưu manh kia biết nhé.
Nếu tao là con đĩ, mày là cái gì. Ở đại hội nó phê bình chỉ như gãi ghẻ
cho mày.
Từ điển Hoàng Phê không có mục gãi ghẻ.
+ so sánh không có từ so sánh
(20) Cô bám vào cột quằn người kêu la tưởng là
đứt ruột chết ngay.
Từ điển Hoàng Phê mục đứt ruột. Đau
đến mức như đứt từng khúc ruột. Tiếc đứt ruột. Thương đứt ruột. [tr. 360
]
(21) Chó cắn và người kêu. Tóc gáy thằng
Hiếu dựng lên, nó lo thon thót không hiểu mẹ nó làm sao.
Ở đây, ta phải hiểu rằng, “tóc gáy
thằng Hiếu như bị dựng lên”.
Từ điển Hoàng Phê mục dựng tóc gáy,
không chú từ loại. Sợ quá trước việc rùng rợn khủng khiếp đến mức cảm thấy như
tóc gáy dựng đứng cả lên. Chuyện rùng
rợn nghe dựng tóc gáy. [tr. 271]
+ So sánh có hệ từ là
(22) Có rượu vào mà rủ nhau lẳng bà
lão đi rồi. Đúng là
họ đóng đinh vào đầu mình.
Từ điển Hoàng Phê cũng không có cụm từ
này.
+ Sử dụng hoán dụ để khoa trương
Tác giả Trần Vọng Đạo trong Tu từ học phát phàm lần đầu tiên đã
đưa ra định nghĩa về phép hoán dụ: “Sự vật được nói tới tuy rằng không có điểm
tương tự với sự vật khác, giả sử khi giữa chúng còn có quan hệ không thể tách rời,
tác giả có thể mượn tên của sự vật có quan hệ đó thay cho sự vật được nói tới.
Cách mượn như vậy gọi là phép hoán dụ tu từ” [93]. Nghĩa là, không nói thẳng
ra tên người hoặc sự vật mà mượn tên của sự vật có quan hệ mật thiết với nó thực
hiện phép thay thế.
Phép hoán dụ tu từ được chia thành
nhiều loại khác nhau. Theo quan sát của chúng tôi, lời nói khoa trương trong
“Chuyện Làng Cuội”, tác giả thường dùng cái toàn thể để thay cho từng vật chứa
trong đó. Ví dụ:
(23) Sao bà lại sinh ra vào cái thời
buổi lạ lùng. Thoắt cái cả làng cả tổng xô lại ai cũng như xé ruột xé gan cho
bà.
Ở ví
dụ trên, “cả làng cả tổng” là
vật chứa đựng đại diện cho những người trong đó.
(24) Dù được đi đây đi đó nhưng lần
nào đến ga Hàng Cỏ trông thấy con “phe” đã thấy đẹp hơn vợ mình, huống hồ gặp lại
Nho, con người có cái cười “toàn dân”. Chị ta vừa mở quán nữa tháng trời, cả
huyện đã biết “lai lịch, có riêng gì anh.
(25) Tên bác cả nước người ta còn biết.
Chúng em ở xã bên chả lẽ bác lại không cho vinh hạnh biết bác hay sao?
Từ điển Hoàng Phê không có các cụm từ
“cả làng” “cả tổng” “ cả huyện” hay “cả nước”.
2.3. Phân loại khoa trương theo mức độ
Căn cứ vào
mức độ khoa trương (đã đến mức phi lí hay chưa đến mức phi lí), khoa
trương của người Việt có thể chia thành mấy loại:
(1)
Khoa tương ở mức độ thấp
Khoa trương ở
mức độ thấp là cách nói quá đi so với cái có thật trong thực tế; tuy có thể
nhân lên tới hàng trăm hàng nghìn lần, thậm chí hàng vạn lần, nhưng vẫn chưa đến
mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Sở dĩ như vậy là vì, nghe mãi thành quen
tai, cả người nói và người nghe không ai nghĩ rằng mình đang khoa trương. Chẳng
hạn, trong khẩu ngữ người Việt vẫn hay sử dụng các cụm từ sau để khoa trương: vô cùng vĩ đại, cực kì khó khăn, trăm công nghìn
việc, phục sát đất. Ví dụ:
(26) Anh buồn bã bảo bà: - Thì đúng thế còn gì
nữa. người ta phổ biến, tôi ngồi, mặt dầy như cái mặt mo ở trên huyện ấy.
Từ điển Hoàng Phê mục mặt mo
d. (thgt) chỉ kẻ không biết xấu hổ, trơ trẽn. Họa có là kẻ mặt mo mới dám
làm như thế. [tr. 620]
(27) Đến khi cháu ra về chú đứng lặng,
hai mắt như muốn nuốt chửng lấy cháu.
Từ điển Hoàng Phê mục nuốt chửng
đt. Nuốt gọn cả miếng một lần không nhai. Cho vào mồm nuốt chửng. Sóng chồm
lên như muốn nuốt chửng con thuyền. Nuốt chửng lời hứa. [tr. 744 ]
(28)
Nghe cháu nói bà quặn ruột lại .
Từ điển Hoàng Phê mục quặn t
(hoặc đgt) và giải thích: Lòng quặn đau. [tr.804 ]
(29) Ông thấy giận em gái. Nó không xui con nó
làm cái việc khốn nạn ấy, nhưng ông vẫn tím gan khi nhìn thấy em.
Từ điển Hoàng Phê mục tím gan
t. (kng). Tức giận lắm mà phải nén chịu. [tr.
993].
(30) Tiếng ồn ã của dân chúng nói rằng:
“Các quan trên như quan huyện ta đây, dâm đãng, tham lam, vu oan giá hoạ, hà hiếp
dân chúng làm cho hàng ngàn dân làng điêu đứng, sống dở, chết dở, còn bẩn hơn
thằng ăn mày chứ”. “Mỗi quan có hàng bồ đơn từ kêu oan ức, kiện tụng, có chứng
cứ hai năm rõ mười cứ rành rành ra đấy cũng chả đụng đến một cái lông chân các
quan, huống hồ cái chuyện bông phèng của thằng ăn mày có gì phải cuống lên”.
Từ điển Hoàng Phê mục hai năm rõ mười, không chú. Rành rành, không ai
không thấy. Sự thật đã rành rành, hai năm rõ mười, chối cãi thế nào được.
[tr. 416]
(31) Tôi không thể mẹ con với cái người
vu oan giá họa, gắp lửa bỏ tay người khác được.
Từ điển Hoàng Phê mục gắp lửa bỏ tay người, không
chú từ loại. Ví hành động vu khống để gieo vạ cho người một cách độc ác. [tr.
374]
(32)
Ông hứa chắc như đinh đóng vào cột gỗ lim rằng sẽ thu xếp để lấy cô làm
vợ.
Trong Từ điển Hoàng Phê mục đinh
chú là d (danh từ), và đưa ví dụ giải thích: Chắc như đinh đóng cột (rất chắc chắn, dứt
khoát) [tr. 323]
(33) Một kẻ bị khinh bỉ, một kẻ sống
thêm ở đời này chỉ như một cái ống nhổ cho người ta nhổ vào mặt thì sống làm
gì.
Trong Từ điển Hoàng Phê, mục nhổ
đt, có đưa ví dụ: nhổ vào mặt (tỏ thái độ hết sức khinh bỉ) [tr. 723]
(2)
Khoa trương ở mức độ cao
Khoa trương ở
mức độ cao là cách nói nói quá sự thật một cách quá đáng, đến độ phi lí không
thể tin được. Trong giao tiếp, người ta hay sử dụng các cụm từ và các thành ngữ
khoa trương sau: không
cánh mà bay, một bước lên giời, một chữ bẻ đôi cũng không biết, một ngày
dài hơn thế kỉ, ngàn cân treo sợi tóc, ba đầu sáu tay.
Từ điển Hoàng
Phê mục không cánh mà bay (kng). Ví trường hợp tự dưng mất đi lúc nào,
không biết ai lấy. [tr. 510]
Từ điển Hoàng
Phê mục ba đầu sáu tay (dùng trong câu phủ định hoặc có ý châm biếm. Ví
sức lực tài năng gấp mấy người thường. Chúng nó có ba đầu sáu tay cũng không
làm gì nổi. [tr. 21]
(34) Khai được chuyện này ra, bao nhiêu chuyện
khác sẽ gỡ ra được, chồng mụ không phải bị buộc oan, không phải “ngàn cân treo
sợi tóc” như bây giờ.
Từ điển Hoàng Phê mục ngàn cân
treo sợi tóc, không chú từ loại. Chỉ tình thế, tình trạng cực kì nguy hiểm,
đe dọa đến số phận vận mệnh. Tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. [tr. 668]
(35) Từ thiếu nhi lan tới các ông,
các bà đi làm cỏ, gánh phân, đào ao xây
chuồng lợn, cũng nhẩm thuộc vè có khí thế đấu tranh “long trời lở đất” nay mai.
Từ điển Hoàng Phê mục long trời lở
đất không chú từ loại. Ví hiện tượng, sự kiện có tác động vang dội khắp
nơi, làm đảo lộn trật tự cũ. Cuộc cách mạng long trời lở đất. [tr. 578 ]
(36) Kẻ
khác đụng đến là thấy đứt ruột ra làm năm, làm bảy.
Từ điển Hoàng Phê mục đứt ruột không chú từ loại,
đau xót như đứt từng khúc ruột. Tiếc đứt ruột. Thương đứt ruột. [tr. 360
]
(37) Mả mẹ thằng chó dái câm mồm đi
bà còn đỡ lộn ruột.
Từ điển Hoàng Phê mục lộn ruột,
giải thích: Tức giận đến mức cảm thấy không thể chịu được. Tức lộn ruột.
Nghe mà lộn cả ruột. [tr. 583]
(38) Vì con mà mẹ phải lên thác xuống
ghềnh, mẹ đâu có quản ngại.
Từ điển Hoàng Phê mục lên thác xuống ghềnh (vch). Ví cảnh gian truân vất vả gian nan.
[tr. 563]
(39) Cứ mỗi lần hình dung đến cái mắt
chột của mày máu trong người tao lại sôi lên.
Từ điển Hoàng Phê mục sôi máu đt (thgt) như sôi gan.
Sôi gan đt (khng) Giận đến tột độ. Gi ận sôi gan. Nghĩ tới lại sôi
gan. [tr.867 ]
(40) Đêm ấy cô lại thức trắng, nhớ lại
lúc ngồi với bà Nhớn, bà mắng cô: “Ăn nói độc mồm, độc miệng, hổ báo nó bắt mày
đi”.
Từ điển Hoàng Phê mục độc mồm độc miệng, không chú.
Hay nói những điều gở, không lành. [tr. 336]
(3) Khoa trương ở mức độ cực cấp
Là khoa
trương ở mức độ cao nhất.
Khái niệm “cực
cấp” chúng tôi dùng ở đây là khoa trương được xếp vào mức độ cao nhất. Loại này
thường dùng cho những tính từ “thang độ”. Ví dụ:
(41) Bao
nhiêu vất vả gian truân, bao nhiêu đau đớn tủi nhục người mẹ nuốt hết vào trong
lòng cốt để trở thành bất tử, thành người hạnh phúc nhất trần gian lúc đứa con
bập bẹ tập nói.
Từ điển Hoàng
Phê mục trần gian d. Cõi đời, thế giới của con người trên mặt đất (thường
đối lập với tiên giới hoặc âm phủ). Kiếp trần gian. Còn nặng nợ trần gian. Địa
ngục trần gian. Nhưng Từ điển không có mục nhất trần gian.
(4) Khoa trương về điều phi thực tế
Kiểu khoa
trương này là khoa trương về những điều
không có thực hoặc trái với thực tế. Ví dụ:
(42) Tưởng
đã lìa cõi trần gian, dương thế về nơi thiên thu an nhàn, thong dong cõi Niết
Bàn, nào ngờ vẫn hồn xiêu phách lạc.
Từ điển Hoàng
Phê mục hồn xiêu phách lạc không chú từ loại. Sợ đến mức hoàn toàn mất
tinh thần, sợ hết hồn hết vía. [tr. 462]
(43) Keo
kiệt bủn xỉn cho lắm vào. Đúng là giời có mắt.
Từ điển Hoàng
Phê mục trời có mắt, không chú từ loại. Trời bao giờ cũng sáng suốt, công bằng, theo tôn
giáo, tín ngương dân gian (cho nên ở hiền gặp lành, ở ác thì gặp dữ). Thật
là trời có mắt. [tr. 1045]
(44) Đã chắc gì ông thiết. nhưng
chúng bay cũng không được phép quên ông, bắt ông nằm suông bẹp dí ở đây mãi gần
trưa mới được bát ngô bung thì vẫn trợn trạo rắn như cái đầu lâu con mẹ mày, ai
nhai được. Chúng mày ác với ông thì trời đánh thánh vật chúng bay.
Từ điển Hoàng Phê mục trời đánh
thánh vật (kng) đáng tội chết một cách khổ sở nhục nhã (thường dùng để rủa
kẻ độc ác) [tr. 1045]
(45) Bà vu oan giá họa cho tôi, bà
không sợ trời tru đất diệt nốt cái giống nòi nhà bà sao bà Đất ơi...
Từ điển Hoàng Phê mục trời tru đất
diệt không chú từ loại. Trời đất trừng phạt, trời đất không dung được (dùng
làm tiếng chửi rủa) [tr. 1046]
3. Kết luận
Trong một bài viết trước chúng tôi đã
nói về cách ứng xử của Từ điển
Hoàng Phê đối với thành ngữ tiếng
Hán. Qua tra cứu Từ điển Hoàng Phê chúng tôi lại thấy có mấy vấn đề cần trao đổi lại như sau:
Các tập hợp từ hồn xiêu phách lạc,
trời có mắt, trời tru đất diệt, trời đánh thánh vật, lên thác xuống ghềnh, long
trời lở đất, chân trời góc bể, coi trời bằng vung, ngàn cân treo sợi tóc, sống
dở chết dở, đều là những thành ngữ.
Trước hết cần hiểu rõ thành ngữ là gì? Thành ngữ là “tập hợp từ cố định đã quen
dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng các từ tạo
nên nó” [4,tr. 915]
Nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng
Phiến thì cho rằng “thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý
nghĩa. Nghĩa của của chúng có tính hình tượng hoặc / và gợi cảm”. [1, tr.
157]
Còn tục ngữ là “câu ngắn gọn,
thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của
nhân dân” [4,tr. 1062]
Từ
những định nghĩa trên, chúng tôi nhận thấy, đối với các thành ngữ, Từ điển
Hoàng Phê đều không chú từ loại. Mục Không cánh mà bay, Trời đánh
thánh vật, Dở sống dở chết lại chỉ chú là khẩu ngữ. Riêng Chưa đỗ ông
nghè đã đe hàng tổng chú là tục ngữ
thì không có lí gì mà không chú đó là những thành ngữ. Như vậy Từ điển
Hoàng Phê thiếu tính nhất quán.
Thiết nghĩ một cuốn Từ điển ngoài việc
chú và giải thích từ nó còn chức năng định
hướng cách sử dụng cho độc giả. Các cụm từ đứt ruột, sôi máu, sôi gan, đứt
ruột, lộn ruột, nhổ vào mặt, là những cụm động từ có tính chất như thành ngữ,
chứ chú là động từ e không ổn. Hơn nữa chúng vốn là những thành ngữ, người Việt
vẫn nói: tiếc đứt ruột, giận sôi máu / sôi gan, tiếc đứt ruột, tức lộn ruột,
(khinh bỉ) nhổ vào mặt. Nói tắt lộn ruột, sôi máu ai cũng hiểu là tức
lộn ruột, giận sôi máu chứ không thể buồn lộn ruột, rầu sôi máu được.
Những thành ngữ này khi đi vào hoạt
động chúng đã bị rút ngắn thành từ (hiện tượng từ hóa) theo quy luật tiết kiệm
của ngôn ngữ. Riêng mục cắt họng chú là tính từ và như cắt cổ là không thỏa đáng. Bởi
trong thực tế sử dụng ngôn ngữ không phải
lúc nào chúng cũng thay thế cho nhau được.
Chẳng hạn ta chỉ có thể nói lãi suất cắt cổ, bán với giá cắt cổ mà không
thể nói lãi suất cắt họng, bán với giá cắt họng được. Ở đây cắt
cổ đúng là tính từ khi nó mang nghĩa biểu trưng tức nghĩa thành ngữ. Lại
nữa, ví dụ (13 ) Đ. Mẹ nó. Định ngoan cố. Chúng ông cắt họng, thì cắt
họng khi nó mang nghĩa gốc tức nghĩa ban đầu, phải là cụm động từ chứ không thể là tính từ như Từ điển đã chú.
Như đã nói Từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê là cuốn Từ điển có uy tín. Nó đã được tái bản rất nhiều lần; trong đó
có bút tích của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Vài hạt sạn nhỏ, hi vọng các nhà
ngôn ngữ học có trách nhiệm quan tâm chỉnh lí cho những lần xuất bản sau.
(Viết tại Hải Đường, 4/ 2018)
Nguyễn Ngọc Kiên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Ngọc Chừ. Vũ Đức Nghiệu, Hoàng
Trọng Phiến (2005), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục
2. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa
(2006), Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Đào Thản (1990), Lối nói phó
óng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
4. Cù Đình Tú
(2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
5. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển
tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN
Lê Lựu (2003), Chuyện Làng Cuội, NXB
Văn học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét