QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều
giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn
chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất
của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo
Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật
đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
Hưng Yên, chiều 29 tháng
12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tác giả Nguyễn Bàng |
LỜI
BÌNH:
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được
ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp
Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu
thích, trong đó có bài “Quê nghèo” của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái
quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình, cũng “không xa kinh kỳ
sáng chói”, cũng “có lũy tre còm tả tơi”… Sau ngày giải phóng
Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải
vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những
bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của
một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các
làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác xã, lòng người phơi phới hát vang lời
ca "Dân có
ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì
thế hai tiếng “Quê
nghèo” cũng lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.
Ai hay, hôm nay hai
tiếng “Quê nghèo” lại
hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một thời vang
bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn như mới tinh
nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
*
Bài
thơ Quê nghèo (xem: Quê
Nghèo.l) gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe
như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4
khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo
lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Ba
tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp
tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua
năm tháng. Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh thì
phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát” thì không dễ
gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và
đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ
nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải
tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm
vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Rất
dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay
la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau
phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh cò đi ăn đêm, những
cánh cò lặn lội
bờ sông…
Bài
thơ Quê nghèo của Đặng Xuân
Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948 của
Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên hình
ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả tơi, những ông
già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống
thiết:
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Nhưng
trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có niềm vui là nồi cơm độn đầy
ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc
ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Sau
hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối
đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai
ngờ Quê tôi của
nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô
Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với
Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì
Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ
là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len
vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con
trẻ.
Quê
tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng
hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ
quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng
từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng
còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một
sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế
từ nghìn đời nay, bao người ao ước:
Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng
bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt’ với
vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên
cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ
bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ
đang tàn tạ không còn chút sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê
tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Nhìn
lũ trẻ Quê nghèo trong
thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu
ca dao:
Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi
lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài:
“cái thuở bé sao mà lâu
thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì
vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột
đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây
giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì
lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn
nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."
(trích Chiều chiều).
Bây
giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu
chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót
nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.
Những
thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ
chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Với
sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình
Quê tôi
nghèo lắm.
Vậy
nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?
Hãy nghe nhà thơ cắt
nghĩa:
Trước
hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và
giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Ô
hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng
làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể
hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm
cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh
làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng
cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ
ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ
cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây
cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác
biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người
ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài
thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và
trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc mơ
Đến
giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay
tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ!
*
Trong
muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với
tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài
như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một
bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo
khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân
thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người
dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói
chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.
Mặc
dù Bộ máy truyền thông Nhà nước đang tán dương mức tăng hơn 11 lần về thu nhập
bình quân đầu người ở Việt Nam trong 20 năm qua, nhưng tôi không hề tin đến
cuối thế kỷ này, Chủ Nghĩa Xã Hội sẽ hoàn thiện ở Việt Nam; tôi cũng không hề
trông chờ vào sự đổi thay kỳ diệu trong ảo tưởng như câu thơ từ nửa sau thế kỷ
trước:
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều
(Tố Hữu)
Tôi
chỉ mong rằng, trên mọi miền đất nước, bà con dân quê chúng ta sẽ tự cứu mình
để sớm hết cảnh “Quê nghèo”, nghèo đến xót xa cõi lòng như trong
thơ Đặng Xuân Xuyến.
*
Góp
ý riêng với tác giả về một câu thơ:
Tiếng oan
khiên từ thời Giáo Thứ
Tiểu
thuyết “Sống mòn” đề cập đến một vấn đề nhức nhối của người trí thức trong thời
đại cũ, những văn nghệ sĩ nhiều khao khát, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống cứ mòn
dần, lụi dần bởi mối lo cơm áo. Giáo Thứ trong tác phẩm “cũng mang tiếng ông giáo
với bà giáo, quần áo là, sơ mi trắng, thắt ca vát, giầy tân thời, thứ Năm, Chủ
Nhật diện ngất, tưởng mà mỡ lắm, thế mà kì thực bụng chứa đầy rau muống luộc”.
Chứ Giáo Thứ có oan khiên gì đâu?
Tôi nghĩ có lẽ đúng nên
là: “Tiếng oan
khiên từ thời anh Pha”
Anh
Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, một nông dân nghèo khổ, sống
thật thà, chân chất nhưng lại không tránh khỏi “tai bay vạ gió” từ những con
người tưởng như cũng bần cùng như anh nhưng vẫn thiếu mất sự cảm thông và cái
tình, cái nghĩa như Trương Thi rồi đến bọn thống trị hách dịch bạo tàn, ra sức
cướp bóc tô thuế, không ngần ngại tra tấn những người nông dân cùng khổ như tên
địa chủ Nghị Lại và bọn Quan huyện, lính lệ không ngừng tìm mọi cách vơ vét
người nông dân đến khánh kiệt và đưa anh Pha đến bước đường cùng.
Sài Gòn 17-06-2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét