Tác giả Thái Quốc Mưu |
TIỂU SỬ HỌC GỈA, GIÁO SƯ, HỌC GIẢ NGUYỄN KHẮC THUẦN (trích từ Google):
Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần là Nhà Sử Học, là một giảng viên đại học ở Việt Nam (hiện là Trưởng khoa Việt Nam Học Đại Học Bình Dương) và là tác giả của nhiều bộ sách lịch sử, văn hóa. Ông có hai bộ sách được công nhận kỷ lục Guinness Việt Nam năm 2011.
(Trước khi tham gia vào lãnh vực sử học, ông từng ở trong quân đội, làm việc tại báo Văn Nghệ Giải Phóng trong thời kỳ chiến tranh cùng với Trần Bạch Đằng, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy. Nhưng theo Gs. Thuần email gởi TQMưu, cho biết, “…tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng.”
Sau năm 1975, ông làm giảng viên dạy về lịch sử, văn hóa trong ngành sư phạm. Ông từng là giảng viên tại Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Ông hiện là Trưởng khoa Việt Nam Học của trường Đại Học Bình Dương.
Các tác phẩm chính:
- Việt sử giai thoại, 8 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Danh tướng Việt Nam, 5 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Việt sử giai thoại, 8 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Danh tướng Việt Nam, 5 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Thế thứ các triều vua Việt Nam.
- Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam.
- Các đời đế vương Trung Hoa - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (5 tập).
- Trông lại ngàn xưa (3 tập).
- Giai thoại dã sử Việt Nam.
- Các tác phẩm dịch và hiệu đính.
- Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn.
- Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn.
- Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn.
- Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn.
- Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả - Vũ Thế Dinh.
- Ô Châu cận lục, Dương Văn An.
- Đại Nam quốc sử diễn ca, Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái.
- Kỷ lục Việt Nam.
- Việt sử giai thoại, 8 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Danh tướng Việt Nam, 5 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Việt sử giai thoại, 8 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Danh tướng Việt Nam, 5 tập - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Thế thứ các triều vua Việt Nam.
- Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam.
- Các đời đế vương Trung Hoa - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (5 tập).
- Trông lại ngàn xưa (3 tập).
- Giai thoại dã sử Việt Nam.
- Các tác phẩm dịch và hiệu đính.
- Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn.
- Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn.
- Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn.
- Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn.
- Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả - Vũ Thế Dinh.
- Ô Châu cận lục, Dương Văn An.
- Đại Nam quốc sử diễn ca, Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái.
- Kỷ lục Việt Nam.
Đầu tháng 11/2011, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã công nhận Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần đã đạt kỷ lục Việt Nam cho hai nội dung sau:
* Công trình dịch thuật, hiệu đính và chú giải sách CHỮ HÁN CỔ LỚN NHẤT do một người thực hiện (Bộ sách Lê Quý Đôn tuyển tập - 8 tập, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
* Công trình lớn nhất về lịch sử văn hoá Việt Nam do một người biên soạn (Bộ sách Đại Việt sử lược - 5 tập, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam).
Câu nói nổi tiếng của ông:
“Không gì bằng những hành động mà người dân nào cũng mong đợi: “Xử lý nghiêm, công minh và minh bạch các vụ án tham nhũng, bảo vệ triệt để những người đứng ra tố cáo tham nhũng. Người dân phải nghe, thấy, sờ được những hành động này của Chính phủ.”
Qua những tác phẩm đồ sộ của Nguyễn Khắc Thuần và đoạn văn, “Công trình DỊCH THUẬT, HIỆU ĐÍNH và CHÚ GIẢI CHỮ HÁN CỔ LỚN NHẤT DO MỘT NGƯỜI THỰC HIỆN (Bộ sách Lê Quý Đôn tuyển tập - 8 tập, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam), cho ta thấy Nhà sử học, Giảng viên đại học Nguyễn Khắc Thuần, thật là vĩ đại “lắm lắm!”
Cá nhân kẻ viết bài nầy xin bái phục, chào thua!
Trong phần tiểu sử của Nguyễn Khắc Thuần – đã dẫn trên) người viết thật sự “ngạc nhiên” về kiến thức, cách DỊCH THUẬT, VIẾT SÁCH của Giáo sư, Học giả Nguyễn Khắc Thuần.
Tôi đọc được đâu đó, Học giả Nguyễn Khắc Thuần viết, “Phải đọc khá nhiều sách thì mới có thể chú thích tương đối đầy đủ”. Tôi nghĩ, lời công bố trên của Gs. Nguyễn Khắc Thuần chỉ phô trương, để tự “quảng cáo” cho cái “công trình” thiếu chính xác, thiếu trung thực của ông,... Tôi cũng nghĩ, thực tế, Học giả, Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần chẳng đọc được nhiều sách như ông viết...
XIN MINH CHỨNG, GIÁO SƯ THUẦN ĐÃ ĐỊNH NGHĨA SAI, CHÚ GIẢI SAI 3 CHỮ THẦN ĐẠO BI:
Trong khi, với 3 chữ “Thần Đạo Bi”, Học giả Minh Di Giảng sư Khoa Hán Văn các đại học Sàigòn xa xưa, đã trích dẫn hàng chục bộ sách để chứng minh chỗ sai của ông “Học giả” Nguyễn Khắc Thuần.
Sau khi đọc bộ sách của Gs. Thuần, thấy nhiều câu giải thích “lạ!”, người viết liền thỉnh ý Giảng sư, Học giả Minh Di, ở Úc Châu, và được sự chấp thuận của ông, người viết xin trích một đoạn dài trong bộ “Nói Chuyện Học Thuật Bên Kia Bờ”, do Giảng sư, Học giả Minh Di biên soạn.
Tham khảo có trích đoạn: “NÓI CHUYỆN HỌC THUẬT BÊN KIA BỜ” của Học giả, Giáo sư, Giảng sư MINH DI. (Ghi chú quan trọng: Học Thuật Bên Kia Bờ, chưa xuất bản. TUYỆT ĐỐI CẤM MỌI SỰ TRÍCH DẪN TỪ BÀI VIẾT NẦY ĐỂ IN THÀNH SÁCH. NẾU VI PHẠM, CHÚNG TÔI SẼ TRUY TỐ TRƯỚC PHÁP LUẬT VỚI TỘI DANH VI PHẠM TÁC QUYỀN ĐÚNG THEO HIỆP ƯỚC TÁC QUYỀN QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT.)
Trong bộ tác phẩm “Kiến Văn Tiểu Lục”, của Lê Quý Đôn do Nguyễn Khắc Thuần dịch và hiệu đính có rất nhiều sai lầm.
Về 3 chữ “Bia Thần Đạo”, Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần giải thích: “Con ông tên là, (Trịnh) Đán làm Binh Bộ Thượng Thư, hiện nay vẫn còn có Bia Thần Đạo ở xã An Hoành”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 28). Chú giải của Gs. Nguyễn Khắc Thuần: “Bia Thần Đạo là BIA GHI VIỆC ĐƯỢC BAN SẮC PHONG LÀM THẦN”
Học giả, Giảng sư Minh Di phê bình (trích nguyên văn):
- “Đọc chú thích của Nguyễn Khắc Thuần giải nghĩa tiếng “Bia thần đạo” (Thần đạo bi) mà tôi không thể nào ngờ 3 chữ bình thường như vậy mà ông cũng dịch sai được!
- “Đọc chú thích của Nguyễn Khắc Thuần giải nghĩa tiếng “Bia thần đạo” (Thần đạo bi) mà tôi không thể nào ngờ 3 chữ bình thường như vậy mà ông cũng dịch sai được!
- “Thần Đạo Bi là tấm bia dựng trên đường đi trước mộ phần, trên bia khắc một bài văn tự thuật tiểu sử (cuộc đời, sự nghiệp) của người quá vãng. Tuyệt đối đây không phải là tấm “bia ghi việc được ban sắc phong làm thần” như Nguyễn Khắc Thuần nói!”
1- Từ điển Từ Nguyên: “Thần Đạo Bi”. Lập tại mộ đạo thượng đích BI, thượng ký tử giả sinh bình”.
2- Hán Dương Chấn Bi, thủ đề tác: “Cố Thái úy Dương Công Thần Đạo Bi minh”.
3- Tham duyệt: Tống, Ngô Tăng “Năng Cải Trai Mạn Lục, Nhị. Mộ Lộ xưng Thần Đạo”.
Dịch nghĩa:
1 - Thần Đạo Bi: TẤM BIA DỰNG TRÊN ĐƯỜNG ĐI TRƯỚC MỘ PHẦN. TRÊN BIA KHẮC BÀI VĂN TỰ THUẬT CUỘC ĐỜI CỦA NGƯỜI QUÁ VÃNG”
2 - Tấm bia của Dương Chấn thời Hán ở trên đầu Bia khắc. “Bài minh ghi lại tiểu sử của ông Thái úy quá cố họ Dương”.
3 - Đọc thêm: “Năng Cải Trai Mạn Lục”, Quyển II, “Đường trước Mộ gọi là Thần Đạo”, của Ngô Tăng đời Tống.
Minh Di án:
- Từ điển Từ Nguyên nói rằng: “Đường đi trước Mộ gọi là Thần Đạo” trong tập bút ký, Năng Cải Trai Mạn Lục, của Ngô Tăng nằm ở Quyển II.”
- Từ điển Từ Nguyên nói rằng: “Đường đi trước Mộ gọi là Thần Đạo” trong tập bút ký, Năng Cải Trai Mạn Lục, của Ngô Tăng nằm ở Quyển II.”
Mở tập bút ký nói trên thì thấy Từ Nguyên đã lầm! Đoạn văn ngắn dẫn trên, chính xác thuộc QUYỂN I của tập bút ký. (Tham khảo Năng Cải Trai Mạn Lục. Qu. I. Sự thủy. 73. Mộ lộ xưng Thần Đạo).
- Từ điển Từ Hải, Thần Đạo Bi: “Mộ đạo tiền lập Bi dĩ ký tử giả chi sinh bình vị chi Thần Đạo Bi”.
- Thần Đạo Bi: Tấm Bia lập trước mộ để ghi lại cuộc đời của người chết được gọi là “Thần Đạo Bi”.
Cứ như định nghĩa trên đây, Thần Đạo Bi là Tấm bia ghi Hành Trạng (Tiểu sử, Truyện) của một người quá vãng.
- Tục lập “Thần Đạo Bi”, theo “Năng Cải Trai Mạn Lục”: Bắt đầu có từ thời Tây Hán. (Tham khảo Sđd. Quyển thứ, và điều mục đã dẫn ở trang trước).
Nhưng, cũng cần nói rõ ở đây là, những người được lập bia, khắc lại tiểu sử trên bia đều là những người có thanh vọng hoặc trong giới quyền quí, hoặc trong giới trí thức.
Văn hào Hàn Dũ (768 - 824) trong suốt một đời chỉ viết có 6 bài “Thần Đạo Bi” cho 6 nhân vật có tiếng tăm đương thời.
- THẦN ĐẠO BI LÀ LỐI ĐI, ĐƯỜNG ĐI TRƯỚC MỘT PHẦN.
Cũng Từ điển Từ Nguyên dẫn trên: “Thần Đạo... Mộ đạo. Ý vi Thần hành đích đạo lộ...”
- Hậu Hán Thư. Tứ nhị, Trung Sơn Giản vương Yên truyện: “Đại vi tu trủng doanh, khai Thần Đạo”. Chú: “Mộ tiền khai đạo, kiến thạch trụ dĩ vi tiêu, vị chi Thần Đạo”. Dịch nghĩa: “Thần Đạo... LỐI ĐI (phía trước) CỦA MỘ PHẦN. Ý nói là đường của Thần đi...
- Hậu Hán Thư. Quyển XLII, “Trung Sơn Giản vương Yên truyện” (chép): “Cho sửa sang làm lại Mộ phần to lớn (hơn), mở đường đi trước mộ”. Chú thích: “TRƯỚC MỘ LÀM ĐƯỜNG ĐI, DỰNG TRỤ ĐÁ LÀM MỐC, GỌI LÀ “THẦN ĐẠO”
Minh Di án:
“Chú thích Từ Nguyên dẫn trên là của Lý Hiền (655 - 684) đời Đường.”
“Chú thích Từ Nguyên dẫn trên là của Lý Hiền (655 - 684) đời Đường.”
Trong cuốn “Hậu Hán Thư Tập Giải” Vương Tiên Khiêm (1842 - 1917) cuối đời Thanh viện dẫn lời học giả Huệ Đống (1697 -1758) viết: “Thần đạo chi xưng thủy vu Tây Hán”. Nghĩa: “Danh xưng Thần đạo khởi từ thời Tây Hán”).
- Sử gia Ban Cố (32 - 92) chép: “Vũ kí tự vi Bác Lục Hầu, thái phu nhân Hiển cải Quang thời sở tự tạo doanh chế nhi xỉ đại chi; khởi tam xuất khuyết trúc thần đạo, bắc lâm Chiêu Linh, nam xuất Thừa Ân”.
- Hán Thư. Qu. LXVIII. Hoắc Quang truyện: “Sau khi (Hoắc) Vũ kế thừa (cha), giữ tước Bác Lục Hầu thì thái phu nhân (tên) Hiển cho sửa lại phần mộ mà (Hoắc) Quang xây lúc còn sống, xây cất lớn hơn, xa xỉ hơn, ở 3 bên mộ phần, mỗi bên dựng 2 cây cột (đá), cho làm đường đi trước mộ phần, về phía Bắc (đường) chạy tới Chiêu Linh Quán, về phía Nam trải tới Thừa Ân Quán”.
Về 2 tên gọi Chiêu Linh và Thừa Ân trong đoạn dẫn trên, Nhan Sư Cổ (581 - 645) viết: “Phục Kiền viết: “Chiêu Linh, Thừa Ân, giai quán danh dã”.
- Lý Kì viết: “Chiêu Linh, Cao tổ mẫu trủng viên dã”.
- Văn Dĩnh viết: “Thừa Ân, Nghi Bình Hầu trủng viên dã”.
- Sư Cổ viết: “Phục thuyết thị dã, Văn, Lý tịnh thất chi”. Dịch nghĩa: “Phục Kiền nói: Chiêu Linh, Thừa Ân đều là tên Quán.
- Lý Kì nói: “Chiêu Linh là (tên) cái vườn ở khu mộ phần của mẹ (Hán) Cao tổ”.
- Văn Dĩnh nói: “Thừa Ân là (tên) cái vườn ở khu mộ phần của Nghi Bình Hầu”.
- Sư Cổ nói: “Thuyết của Phục Kiền đúng, Văn Dĩnh, Lý Kỳ đều sai”.
Chưa rõ Chiêu Linh Quán và Thừa Ân Quán là “Quán” gì? là Quán xá? là Thư quán? hay Quán thự? Chú thích trên đây của Nhan Sư Cổ (581-645) cũng đã không làm cho chúng ta hết thắc mắc về loại của 2 cái Quán này: là Quán gì?
Sau hết, cần nói thêm một điều:
- Có những nhân vật mà tiểu sử đã không được Sử sách đương thời ghi lại trong một số trường hợp nhờ những “Thần đạo bi” mà người đời sau có dữ kiện mà ghi vào sách.
- Trong “Tân Đường Thư”, khi ghi lại tiểu sử của Vương Trọng Thư (762 - 823), sử gia Âu Dương Tu (1007 - 1072) đã căn cứ bài Thần Đạo Bi của Hàn Dũ đời Đường viết về nhân vật này.
Bài Thần Đạo Bi viết về Vương Trọng Thư này của Hàn Dũ tựa là: “Đường Cố Giang Nam Tây Tạo Quan Sát Sứ, Trung Đại Phu, Hồng Châu Thích Sử Kiêm Ngự Sử Trung Thừa, Thượng Trụ Quốc, Tứ Tử Kim Ngư Đại, Tặng Tả Tán Kị Thường Thị, Thái Nguyên Vương Công THẦN ĐẠO BI minh.
Nguyễn Khắc Thuần viết: “Thần Đạo Bi: “là bia GHI VIỆC ĐƯỢC BAN SẮC PHONG LÀM THẦN”
Với những gì tôi (tức Học giả Minh Di) trưng dẫn trên đây về các tiếng “Thần đạo”, “Thần đạo bi” thì tôi đây xin hỏi ông Nguyễn Khắc Thuần, ông đọc ở đâu hay là chỉ thấy 2 chữ Thần đạo, cứ đó mà suy đoán theo cái kiến thức rất hạn hẹp, rất thiếu học vấn của ông. Vậy, ông cho biết Thần nào ở đây, thưa ông Nguyễn Khắc Thuần?” (ngưng trích)
***
* VỀ DỊCH TÊN NGƯỜI (trích):
Ngoài ra, đối chiếu với nguyên tác Hán văn thì thấy trong câu dịch trích dẫn phần đầu bài trên đây Nguyễn Khắc Thuần đã dịch thiếu mất 1 chữ:
Nguyên tác viết: “Trịnh Khả... Tử Công Đán, Binh bộ Thượng thư, Hữu Thần Đạo Bi...” Dịch nghĩa: “Trịnh Khả...… Con là (Trịnh) Công Đán, là Binh bộ Thượng thư, có Bia ghi tiểu sử...”
Nguyễn Khắc Thuần, như đã dẫn, dịch thiếu chữ “Công”, chỉ dịch là “(Trịnh) Đán”. Thiếu sót trên đây quá hiển nhiên, bất cứ độc giả nào ghé mắt vào nguyên tác cũng sẽ đi đến kết luận là Nguyễn Khắc Thuần đã không đọc bản Hán văn, không thể tìm được một kết luận nào khác hơn!
Nếu dịch thiếu ý còn có thể, nhưng dịch thiếu chữ trong tên người, tên sự vật, sự việc... đây là việc rất hiếm!” (ngưng trích)
***
* VỀ NƯỚC CHIÊM THÀNH:
Nguyễn Khắc Thuần viết: “CHIÊM THÀNH TUY LÀ MỘT NƯỚC NHỎ, NHƯNG NHÂN TÀI CŨNG KHÔNG ÍT” (Qu. 5. Tài Phẩm. 29).
Học giả Minh Di viết (trích): “Ông có đọc nguyên tác Hán văn không đây ông Nguyễn Khắc Thuần?”
Nguyên tác ghi rành rành như sau: “Chiêm Thành nhất quốc nhân tài dịch phi thiểu dã!” Dịch nghĩa: “NHÂN TÀI CỦA CẢ NƯỚC CHIÊM THÀNH CŨNG KHÔNG PHẢI LÀ ÍT”
Đối chiếu thì độc giả thấy ngay ông Nguyễn Khắc Thuần đã dịch không chính xác, dịch không đúng với nguyên tác!
Làm gì có cái ý “TUY LÀ MỘT NƯỚC NHỎ” ở đây, thưa ông Nguyễn Khắc Thuần?
Nếu ông dịch sai thì do trình độ, tài học ông còn kém, kém nhưng dầu sao ông cũng có ghé mắt vào nguyên tác! Trong khi ở đây nguyên tác không ghi, không chép, vậy mà không biết ông lấy từ đâu ra để mà dịch câu “tuy là một nước nhỏ”? Không có ông làm cho thành có, thực là đáng ngờ hết sức!
Nguyễn Khắc Thuần có đọc bản Hán văn không đây, hay là ông chỉ biết nhắm mắt mà cóp từ một bản dịch bá láp nào đó, và cứ thế bê vào bản dịch của ông mà không cần đối chiếu với nguyên tác (mà tôi đây (tức Học giả Minh Di) cũng chẳng rõ là ông kia có rành rẽ Hán văn hay không để có thể đối chiếu hay không nữa?) (ngưng trích).
***
* VIẾT VỀ NHÀ CỦA LÊ NIỆM (trích):
Nguyễn Khắc Thuần viết: “NHÀ CỦA (Lê) NIỆM CÓ TÊN LÀ THOÁT HIÊN NGỤ Ý HÂM MỘ Ý CHÍ KHÍ ĐÀO CHU” (1)….” (Qu. 5. Tài Phẩm. 32).
Nguyễn Khắc Thuần Chú thích như sau: (1) “Đào Chu nói ở đây là Phạm Lãi, người Trung Quốc thời Xuân Thu. Ông là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn hạ được Ngô Phù Sai, nhưng sau đó thì bỏ đi chu du khắp Ngũ Hồ chứ không chịu ra làm quan cho Việt Vương Câu Tiễn”.
Đáng lẽ Nguyễn Khắc Thuần phải chú thích tại sao Phạm Lãi được gọi là Đào Chu. Còn danh xưng Đào Chu của Phạm Lãi liên quan nghề Gốm của Trung Quốc.
Nói tới Bình Trà đất nung trong “Trà nghệ Trung Quốc” thì không thể không đề cập loại bình trà gọi là “Tử Sa Trà hồ” sản xuất tại huyện Nghi Hưng thuộc tỉnh Giang Tô.
Đất Nghi Hưng vào các thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn), Chiến Quốc (403 - 221 tr. Cn) có tên là Kinh Khê, vì gần Kinh Nam Sơn, lại nữa ngọn Thương Sơn trong địa hạt có một cái khe nước tên Thanh Khê, do đó được mệnh danh là Kinh Khê.
Sau đó, trải các triều Tần (221 - 206 tr. Cn), rồi Hán (206 tr. Cn - 220 Cn) đất Kinh Khê được đổi tên thành Dương Diễn. Cuối thời Tây Tấn (265 - 317), Chu Khởi (258 - 313) tại đất nầy, đã trước, sau 3 lần hưng nghĩa quân tham gia việc đánh dẹp cuộc nổi dậy của Thạch Băng (? - 304) và sau đó là Trần Mẫn (? - 307), Tiền Khoái (? - ?), vì thế mà sau đó đất này lại được đổi tên thành Nghĩa Hưng.
Sau đó, tới thời Triệu Tống (960 - 1279), vì Tống Thái tông (939 - 997; tại vị: 976 - 997) tên Triệu Quang Nghĩa cho nên đất Nghĩa Hưng đã phải đổi tên lại thành Nghi Hưng vào đầu Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976 - 984).
Nghề Gốm, nghề Sứ tại Nghi Hưng có một Lịch sử rất lâu đời. Theo truyền thuyết đã khởi đầu từ quan đại phu Phạm Lãi (? - ?) nước Việt vào cuối thời Xuân Thu. Gia đình Phạm Lãi ở đất Kinh Khê làm nghề gốm mà trở nên giàu có và Phạm Lãi được gọi qua biệt hiệu “Đào Chu Công”, chữ “ĐÀO” có nghĩa là “ĐỒ GỐM”. Cũng vì thế mà giới hành nghề Gốm ở Nghi Hưng thời trước đã tôn Phạm Lãi là “Đào Tổ”, (Tổ nghề Gốm). (ngưng trích)
***
* VỀ HAI CHỮ PHIÊN ĐỂ:
+ Nguyễn Khắc Thuần: “Lê Thánh Tông khi còn ở Phiên Để (4) ...…”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 33). Chú thích của Nguyễn Khắc Thuần: (4)… “PHIÊN ĐỂ LÀ NƠI Ở TRƯỚC KHI LÊN NGÔI CỦA CÁC BẬC ĐẾ VƯƠNG”.
Minh Di: “Nguyễn Khắc Thuần chú thích thật hàm hồ! NƠI Ở TRƯỚC KHI LÊN NGÔI nó ra làm sao đây thưa ông Nguyễn Khắc Thuần?”
Từ điển Từ Nguyên:
- “Phiên để”: Chư hầu vương đích phủ đệ”. Dịch: “PHỦ ĐỆ CỦA CÁC BẬC ĐẾ VƯƠNG VUA CHƯ HẦU”. Nghĩa của tiếng “PHIÊN ĐỂ”, GIẢN DỊ CHỈ LÀ MỘT DANH XƯNG CHỈ DINH THỰ CỦA BẬC ĐẾ VƯƠNG, nói chung. chứ không chuyên chỉ “nơi ở trước khi lên ngôi của các bậc Đế Vương” như Nguyễn Khắc Thuần đã giải thích ba láp!
- “Phiên để”: Chư hầu vương đích phủ đệ”. Dịch: “PHỦ ĐỆ CỦA CÁC BẬC ĐẾ VƯƠNG VUA CHƯ HẦU”. Nghĩa của tiếng “PHIÊN ĐỂ”, GIẢN DỊ CHỈ LÀ MỘT DANH XƯNG CHỈ DINH THỰ CỦA BẬC ĐẾ VƯƠNG, nói chung. chứ không chuyên chỉ “nơi ở trước khi lên ngôi của các bậc Đế Vương” như Nguyễn Khắc Thuần đã giải thích ba láp!
Bậc vương nào cũng có phủ đệ riêng, và như vậy, không lẽ bậc vương nào có phủ đệ rồi cũng được lên ngôi vua? Thiệt là ba láp!
Dũ Tín (513 - 581) thời Bắc Chu (557 - 581) viết:
Hữu mỹ lệnh đức (Có đức tốt đẹp.)
Mậu thân phiên để. (Người thân đầy phủ.)
(Dũ Tử Sơn Tập. Qu. XV. Chí minh).
(Chu Đại Tướng Quân Nghĩa Hưng Công Tiêu công mộ chí minh).
Hữu mỹ lệnh đức (Có đức tốt đẹp.)
Mậu thân phiên để. (Người thân đầy phủ.)
(Dũ Tử Sơn Tập. Qu. XV. Chí minh).
(Chu Đại Tướng Quân Nghĩa Hưng Công Tiêu công mộ chí minh).
Trên đây là bài minh Dũ Tín tự thuật công nghiệp, đức độ của Tiêu Thế Di (? - 568), là đại thần triều Bắc Chu. Tiêu Thế Di có phải là hoàng đế đâu Nguyễn Khắc Thuần?
Tiêu Thế Di có Truyện trong bộ “Chu Thư (Qu. XLII”). (ngưng trích).
Tiêu Thế Di có Truyện trong bộ “Chu Thư (Qu. XLII”). (ngưng trích).
***
* VỀ TÊN LÝ BẬT (trích):
+ Nguyễn Khắc Thuần, viết: “MƯU VIỆC NƯỚC MỖI LẦN ĐỂU NHƯ việc nước mỗi lần đều như Lý Bí (1) thời Đường”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 36). Chú thích của Nguyễn Khác Thuần: “(1) NGUYÊN BẢN VIẾT LÝ BẬT NÊN CHÚNG TÔI PHẢI PHIÊN ÂM LÀ LÝ BÍ CHỨ CÓ LẼ ĐÂY LÀ NHÂN VẬT LÝ BÍ, một văn thần xuất sắc của Trung Quốc thời nhà Đường. Ông người Kinh Triệu, làm quan dưới các thời Đường Túc Tông (756 - 762), Đường Đại Tông (762 - 799), Đường Đức Tông (779 - 805)”.
Minh Di, viết:
Nguyễn Khắc Thuần lại viết tầm bậy! ĐÚNG! ÔNG VIẾT THÀNH SAI, lại chú thích CHO LÒI CÁI KHẢ NĂNG KÉM CỎI của ông ra!
Nguyễn Khắc Thuần lại viết tầm bậy! ĐÚNG! ÔNG VIẾT THÀNH SAI, lại chú thích CHO LÒI CÁI KHẢ NĂNG KÉM CỎI của ông ra!
Lê Quí Đôn ĐÃ VIẾT ĐÚNG, NHÂN VẬT NẦY ĐÚNG LÀ LÝ BÍ (722 - 789), đại thần đời Đường.
Lúc Đường Túc Tông (711 - 762; tại vị: 756 - 761) tức vị thì triệu Lý Bí ra làm tham mưu Quân sự. Chưa được bao lâu thì bị Lý Phụ Quốc (704 - 762) - hoạn quan sủng ái của Túc tông vu cáo hãm hại nên Lý Bí về ẩn ở Hành Sơn.
Đường Đại Tông (726 - 779; tại vị: 762 - 779) tức vị, lại triệu ông về triều, giao cho chức Hàn Lâm Học Sĩ, và sau đó xuất nhiệm Thích Sử Sở Châu.
Thời Đức Tông (742 - 805; tại vị: 779 - 805), năm 787 ông đang tại chức Quan Sát sứ ở đất Tây Quách,Thiểm Châu, thì triều đình triệu về giao chức Trung Thư Thị Lang - và Đồng Bình Chương Sự (chức quan do Đường triều lập, tức như Tể tướng).
Trong thời gian nắm giữ Chính sự Lý Bí khuyên Đức Tông không nên nghi kỵ công thần đồng thời kiến nghị về mặt đối ngoại ở phương Bắc hòa hoãn với Hồi Hột, ở phía Nam liên minh với Nam Chiếu, và ở mặt Tây thân với nước Đại Thực để cô lập Thổ Phồn. (Phụ chú: Hồi Hột là hậu duệ của Hung Nô. Đại Thực tức Á Rập).
Các đề nghị trên đây đều được Đường Đức tông nghe theo.
Mình Di, viết:
“LÝ BÍ CHỨ LÝ BẬT NÀO Ở ĐÂY, NGUYỄN KHẮC THUẦN? Duyệt Lịch sử, và Văn học sử, Đường triều thì không thấy có “văn thần xuất sắc” nào tên là Lý Bật, như Nguyễn Khắc Thuần nói cả! Không rõ Nguyễn Khắc Thuần tìm kiếm được nhân vật này ở đâu?” (ngưng trích).
“LÝ BÍ CHỨ LÝ BẬT NÀO Ở ĐÂY, NGUYỄN KHẮC THUẦN? Duyệt Lịch sử, và Văn học sử, Đường triều thì không thấy có “văn thần xuất sắc” nào tên là Lý Bật, như Nguyễn Khắc Thuần nói cả! Không rõ Nguyễn Khắc Thuần tìm kiếm được nhân vật này ở đâu?” (ngưng trích).
(Phụ chú của Thái Quốc Mưu): Trong đoạn, Chú thích của Ông: “(1) Nguyên bản viết LÝ BẬT nên chúng tôi Phải PHIÊN ÂM LÀ LÝ BÍ, CHỨ CÓ LẼ ĐÂY LÀ NHÂN VẬT LÝ BÍ…” Như vậy, là thế nào? – Ông đã nghĩ, Lê Quý Đôn viết LÝ BÍ, sai! nên chỉnh thành LÝ BẬT, rồi lại xác nhận: “CHỨ CÓ LẼ ĐÂY LÀ NHÂN VẬT LÝ BÍ…” Xin hỏi Gs. Vậy ông sửa Lý Bí thành Lý Bật để làm gì? Thưa Giáo sư?)
***
* SAI VỀ NIÊN LỊCH (trích):
Ngoài ra, Nguyễn Khắc Thuần còn sai một điểm nữa là Đường Túc Tông chỉ làm vua đến năm 761, chứ không phải năm 762 như Nguyễn Khắc Thuần ghi ở phần chú thích.
***
* SAI VỀ ĐỊNH NGHĨA (trích):
Nguyễn Khắc Thuần, viết: “Sự nghiệp mãi còn”. (Qu. 5. Tài phẩm. 58). Nguyễn Khắc Thuần chú thích: “SỰ NGHIỆP MÃI CÒN”: Nguyên bản viết là DIÊM MAI VĨNH TẾ. Trong đó, DIÊM là MUỐI, MAI là quả MƠ CHUA - hai gia vị không thể thiếu khi nấu ăn. Hai gia vị này mãi còn thì phúc nhà cũng sẽ mãi còn. VĨNH TẾ LÀ MÃI ĐẦY, KHÔNG BAO GIỜ VƠI”
Minh Di, viết:
- Nguyễn Khắc Thuần lại giải thích bậy! Nguyễn Khắc Thuần không biết rằng 2 chữ “diêm mai” là chữ xuất từ “Thượng Thư”: “Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai”. (Thượng Thư. Thượng Thư. Duyệt mệnh. Hạ.
- Nguyễn Khắc Thuần lại giải thích bậy! Nguyễn Khắc Thuần không biết rằng 2 chữ “diêm mai” là chữ xuất từ “Thượng Thư”: “Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai”. (Thượng Thư. Thượng Thư. Duyệt mệnh. Hạ.
- “Nếu nói nấu canh thì ông như muối và trái mơ”. (Phụ chú trên đây là lời Ân Cao Tông nói với Phó Duyệt).
- Thái Trầm chú giải câu trên, viết: “Phạm thị, viết: “... Canh phi diêm mai bất hòa, nhân quân duy hữu mỹ chất tất đắc hiền thần phụ đạo nãi năng thành đức… Canh giả diêm quá tắc hàm, mai quá tắc toan, diêm mai đắc trúng nhiên hậu thành canh. Thần chi ư quân, đương dĩ nhu tế cương khả tế”. Chú: “Họ Phạm, nói: “... Canh mà không có muối và trái mơ thì không vừa miệng, bậc quân chủ có tư cách tốt thì chắc chắn sẽ gặp bậc hiền thần phụ giúp, lúc đó mới có thể thành cái đức của một người cai trị tốt... Canh mà bỏ muối nhiều quá thì mặn, trái mơ nhiều quá thì chua, muối và vị mơ đúng lượng thì canh mới thành. Bề tôi đối với vua nên mềm mỏng để trợ giúp vua thì chính sự mới hoàn thành (tốt đẹp) được”.
Ở đây mượn việc nêm canh để chỉ việc chỉnh lý quốc sự.
Nguyễn Khắc Thuần giải thích 2 tiếng “VĨNH TẾ LÀ MÃI ĐẦY, KHÔNG BAO GIỜ VƠI” thì thực là không biết gì cả! “TẾ” có nghĩa là “ĐÃ QUA BÊN KIA BỜ”, là “THÀNH CÔNG”, bởi vậy ở đây 2 tiếng “VĨNH TẾ”, CÓ Ý NÓI MỌI VIỆC HOÀN THÀNH TỐT ĐẸP DÀI LÂU.
Sau này, trong thi văn 2 chữ “diêm mai” thường được dùng để chỉ Tể Tướng, hay chức quyền tương đương Tể Tướng.
- Dũ Tín (513 - 581) thời Bắc Chu (557 - 581), viết:
Nhược thiệp đại xuyên (Như vượt sông lớn).
Ngôn bằng chu tập. (Phải nhờ mái chèo).
Như hòa đỉnh thực, (Như nêm thức ăn).
Hữu ký ư diêm mai. (Nêm muối nêm mơ),
Quân thần nhất thể, (Vua tôi một lòng).
Khả dĩ tĩnh phần ai. (Mới lắng được trần ai).
Đắc nhân tắc trị, (Được người thì yên).
Hà thế vô kỳ tài? (Thời nào không kỳ tài?).
(Dũ Tử Sơn Tập. Qu. VI. Giao Miếu ca từ. Thương điệu khúc).
Nhược thiệp đại xuyên (Như vượt sông lớn).
Ngôn bằng chu tập. (Phải nhờ mái chèo).
Như hòa đỉnh thực, (Như nêm thức ăn).
Hữu ký ư diêm mai. (Nêm muối nêm mơ),
Quân thần nhất thể, (Vua tôi một lòng).
Khả dĩ tĩnh phần ai. (Mới lắng được trần ai).
Đắc nhân tắc trị, (Được người thì yên).
Hà thế vô kỳ tài? (Thời nào không kỳ tài?).
(Dũ Tử Sơn Tập. Qu. VI. Giao Miếu ca từ. Thương điệu khúc).
- Minh Di, viết: “Từ điển Từ Nguyên nói Bài thơ dẫn trên ở Quyển VII của “Dũ Tử Sơn Tập”, điểm này không chính xác. Như đã dẫn ở trên, bài này thuộc Quyển VI.)
(Tham khảo Từ Nguyên: Mục giải nghĩa tiếng Diêm mai). (ngưng trích).
(Tham khảo Từ Nguyên: Mục giải nghĩa tiếng Diêm mai). (ngưng trích).
***
Nhận xét của Thái Quốc Mưu:
Trong bộ sách dịch thuật và lý giải tác phẩm của “LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP”, Học giả Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần, mở đầu: “Chúng ta đều biết Lê Quí Đôn là một học giả uyên bác, do đó chú thích tác phẩm của ông là một việc làm tương đối khó khăn! Khó khăn là vì PHẢI ĐỌC KHÁ NHIỀU SÁCH thì mới có thể chú thích tương đối đầy đủ, để cho người đọc có một cái nhìn tổng quát về học, vấn của Lê Quí Đôn.”
Học giả Nguyễn Khắc Thuần cho chúng ta biết, ông phải đọc khá nhiều sách thì mới có thể chú thích tương đối đầy đủ, thực tế ông Thuần đã tự thổi phồng để tự “quảng cáo”, chứ chẳng đọc được bao nhiêu sách. Chứng minh, chỉ 3 chữ Thần Đạo Bi (Bia thần đạo) ông Học giả, Giáo sư nầy cũng giải thích SAI! Trong khi, với 3 chữ đó, Học giả, Giảng sư Khoa Hán Văn, Cổ ngữ, Học gia, Giảng sư Minh Di đã trích dẫn hàng chục bộ sách để chứng minh chỗ sai của “Học giả” Nguyễn Khắc Thuần.
Đoạn bài trên đây chúng tôi chỉ trích một đoạn dài trong bài viết của Học giả Minh Di phê bình bộ sách viết về Bộ “LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP” của tác giả Nguyễn Khắc Thuần. Nó chỉ là một phần rất nhỏ để chứng minh sự sai lầm trong vô vàn những sai lầm khác.
Hậu quả trong việc viết biên khảo mà sai, viết bừa bãi sẽ để lại hậu thế một tai hại không thể lường được! Do đó, đòi hỏi người viết phải tra cứu tài liệu thật chính xác. Đáng tiếc, Học giả Giáo sư Nguyển Khắc Thuần không nghĩ ra điều đó, làm uổng phí khá nhiều công lao của ông.
Một lần học giả Minh Di chia sẻ với tôi (TQMưu): “Mình làm văn học, biết điều sai mà không nói là có tội với tiền nhân và có lỗi với các thế hệ mai sau. Khi phê bình, mình phải đặt tình cảm riêng tư ra ngoài, lấy công tâm mà nói. Không nên thiên vị kẻ nào. Mình cứ khen đúng chỗ, chê đúng chỗ chẳng ai dám phê phán mình cả.” Nghe lời chia sẻ của ông tôi rất thích, bở nó rất hợp ý tôi. (Mời xem tiếp bài 2)
Tham khảo có trích đoạn:
- “Nói Chuyện Học Thuật Bên Kia Bờ”
của Học giả, Giáo sư, Giảng sư Minh Di.
- “Nói Chuyện Học Thuật Bên Kia Bờ”
của Học giả, Giáo sư, Giảng sư Minh Di.
THƯ PHẢN ẢNH CỦA HỌC GIẢ, GIÁO SƯ NGUYỄN KHẮC THUẦN: VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG ĐÔNG DI VÀ ÔNG THÁI QUỐC MƯU
Tình cờ khi lên mạng Google xem, tôi đọc được bài phê bình của ông Thái Quốc Mưu và ông Đông Di về bản dịch trọn bộ LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP (gồm 8 tâp) của tôi do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành. Tôi rất vui vì điều ấy cũng có nghĩa hai ông đã đọc sách của tôi dù theo lời chú thích cuối bài viết, hiện nay ông Thái Quốc Mưu đang định cư tại Hoa Kỳ. Tôi nghĩ việc trao đổi hay phê bình là hoạt động rất bình thường và nhờ vậy chúng ta mới tránh bớt được sai sót. Tuy nhiên, tôi tự thấy cũng cần có vài lời trao đổi lại với ông Thái Quốc Mưu.
1. Thứ nhất, ông đã rất cẩn thận giới thiệu lý lịch nghề nghiệp của tôi trong bài viết của mình dù điều đó không cần thiết. Vả chăng, ông đã sao chép gần như nguyên văn bản lý lịch này trên mạng Google, nhưng đó lại là bản lý lịch không biết do ai viết, hoàn toàn không đúng với thực tế. Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. Nhưng, điều quan trọng nhất là các nhà nghiên cứu làm việc cẩn trọng không ai dễ dãi sử dụng tư liệu trên mạng. Tôi không có ý khẳng định là mạng luôn viết sai, chỉ có một nhận xét nho nhỏ là trên đó chỗ chưa đúng hơi nhiều.
2. Thứ hai, một bộ sách nặng hơn 10 kg, các ông thấy có hai chỗ sai và cộng hai chỗ này lại vẫn chưa được 10 chữ, dẫu phát hiện đúng đi chăng nữa cũng không nên lấy đó làm chuẩn để khái quát toàn bộ công trình. Thấy ai đó có một sợi tóc bạc rồi hùng hồn tuyên bố rằng tóc người đó đã bạc trắng hết, xã hội công bằng sẽ không dễ gì ủng hộ đâu. Tôi không muốn và cũng không thích tranh luận ồn ào nhưng nhân đây cũng xin nói lại cho rõ như sau :
- Bình đẳng như tất cả những người yêu quý và kính trọng nghề nghiệp, tôi luôn cố gắng làm tất cả những gì cần làm và có thề làm. Trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. tôi đã chú giải hết những gì tôi thấy cần chú giải và dù muốn hay không, tôi cũng phải đọc thật nhiều thư tịch cổ. Nhiều bậc đại khoa Trung Quốc rất khen ngợi tôi, còn hai ông chưa vừa lòng chắc hẳn vì ông còn đọc nhiều hơn tôi.
- Nhưng, chú giải thư tịch cổ của Việt Nam nếu chỉ dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc có lẽ chưa ổn. Dù được các bậc túc Nho thương yêu nên trực tiếp giảng dạy nhưng tôi không bao giờ chấp nhận lặng lẽ ngồi yên một chỗ nghiền ngẫm trước tác của các cây đại bút thuở xưa. Nhờ chịu khó lại cũng nhờ may mắn, tôi đã tích trữ được một kho thần tích trên 500 bản và sắc phong nhiều đến hơn ngàn bản. Tôi đã công phu gạn lọc để loại bỏ những bản giả rồi phiên âm, dịch thuật, hiệu đính và chú giải, nay bước đầu công bố một phần nhỏ, quyển TỔNG TẬP SẮC PHONG VIỆT NAM của tôi đã nặng 150 kg, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (Hà Nội). Các bản thần tích và sắc phong làm giả có số lượng không nhỏ, có năm số bản giả nhiều đến hàng trăm. Ví dụ năm 1782 sau khi được kiêu binh đưa lên ngôi Chúa, Trịnh Tông (cũng tức Trịnh Khải) đã cho lấy hàng trăm tờ sắc phong để khống tặng cho kiêu binh và họ về điền tên thân thích của mình vào. Dân gian nói chung và kiêu binh nói riêng luôn luôn dựng bia theo cách của dân gian và kiêu binh. Ba chữ Thần đạo bi do ông Thái Quốc Mưu và ông Đông Di căn cứ vào các thư tịch cổ Trung Quốc để chú giải tuy có vẻ rất đúng nhưng chỉ đúng với sách vở của Trung Quốc xưa chứ không đúng với thực tế của Việt Nam ta. Tôi dịch và chú giải thư tịch cổ của người Việt trên cơ sở văn bản xưa kết hợp với kết quả khảo sát thực tế chứ có phải ngồi dịch sách của người Hoa đâu.
- Tôi không có ý phủ định hoàn toàn ý kiến của ông Thái Quốc Mưu nhưng thiết nghĩ là mọi vấn đề luôn có nhiều cách hóa giải khác nhau. Tôi hy vọng sẽ có dịp được gặp gỡ và trò chuyện với ông bởi khi trò chuyện, thế nào tôi cũng sẽ học được từ ông những điều phù hợp với mình.
3. Tôi về hưu nay đã ngót hai mươi năm, tuy vẫn còn được mời đến giảng cho các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh nhưng dẫu sao cũng đã thuộc lớp nhà giáo cao niên. Nghề nghiệp và chút vị thế xã hội nho nhỏ khiến tôi phải luôn luôn chú ý giữ hình ảnh của mình, trang phục và ẩm thực, ngôn từ và tác phong, giao tiếp và chữ nghĩa… đều phải thận trọng. Tôi nghĩ là trong khắp thiên hạ, ai ai cũng sẵn lòng nghĩ và làm như tôi. Khen điều đúng nhưng đừng để bị đời chê là nịnh, không ủng hộ điều sai nhưng đừng để bị thiên hạ phê bình thiếu tôn trọng người khác dù đối tượng ta nói tới còn rất trẻ. Cụ thân sinh của tôi là bậc túc Nho, tôn sư của tôi cũng là bậc túc Nho, sinh thời vẫn luôn nhắc nhở tôi phải ghi nhớ điều này. Đọc bài của ông Đông Di và ông Thái Quốc Mưu, tôi thấy hơi xa lạ với bầu khí trao đổi học thuật chân thành nên sức thuyết phục chưa cao. Hai ông và tôi đều là những người nặng lòng với chữ nghĩa. Chữ nghĩa đàng hoàng bao giờ cũng chỉ chuyển tải những giá trị nhân bản và nhân văn. Thay vì tranh luận, tôi chỉ xin gửi tới hai ông lời cảm nhận ngắn này. (Mời xem tiếp bài 3)
Thân ái
Ts. Nguyễn Khắc Thuần
Ts. Nguyễn Khắc Thuần
Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ký lục Việt Nam
Điện thoại : 091-710-2388
E-mail : ts.nguyenkhacthuan@vienkyluc.com
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ký lục Việt Nam
Điện thoại : 091-710-2388
E-mail : ts.nguyenkhacthuan@vienkyluc.com
CHIA SẺ CÙNG HỌC GIẢ, GIÁO SƯ NGUYỄN KHẮC THUẦN – Để trả lời bài viết “VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG ĐÔNG DI VÀ ÔNG THÁI QUỐC MƯU” của ông.
Thái Quốc Mưu
Đôi lời trước khi vào bài:
Kính gởi: Giáo Sư, Học Giả, Tiến Sĩ Nguyễn Khắc Thuần,
Thưa ông.
Thật lòng, sau khi viết về 3 chữ Thần Đạo Bi tôi không muốn viết thêm về những sai lầm của ông trong bộ LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. Bởi, tôi không muốn ông khó xử. Nhưng, qua THƯ TRAO ĐỔI của ông gởi đến tôi, tôi nghĩ, ngoài tôi có thể ông đã gởi đến nhiều người khác. Nếu tôi không phúc đáp THƯ TRAO ĐỔI của ông, có lẽ những vị đã đọc thư ấy, rất có thể hiểu lầm tôi. Vì vậy, buộc tôi phải CHIA SẺ CÙNG ÔNG QUA BÀI VIẾT NẦY. Xin ông vui lòng cảm thông.
Trọng kính
Thái Quốc Mưu
Trọng kính
Thái Quốc Mưu
***
GHI CHÚ:
Tất cả những câu trả lời của tôi dành cho Giáo sư, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, tôi trích đoạn với sự cho phép của Giáo sư, Giảng sư, Học giả MINH DI, ở Úc Châu, trong bài viết: “NÓI CHUYỆN HỌC THUẬT BÊN KIA BỜ”
Tất cả những câu trả lời của tôi dành cho Giáo sư, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, tôi trích đoạn với sự cho phép của Giáo sư, Giảng sư, Học giả MINH DI, ở Úc Châu, trong bài viết: “NÓI CHUYỆN HỌC THUẬT BÊN KIA BỜ”
***
Sau khi bài NHỮNG SAI LẦM CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN KHÁC THUẦN (V/v ông giải thích sai lầm 3 chữ Thần Đạo Bi), được phổ biến trên hệ thống truyền thông toàn cầu (Internet). Cụ thể ở các trang Web:
- Đặng Xuân Xuyến Blogspot. Của văn thi hữu Đặng Xuân Xuyến.
Link: http://dangxuanxuyen.blogspot.com/…/su-sai-lam-cua-hoc-gia-…
(Đăng ngày thứ Sáu 24-02-2017)
Link: http://dangxuanxuyen.blogspot.com/…/su-sai-lam-cua-hoc-gia-…
(Đăng ngày thứ Sáu 24-02-2017)
- Hai Bờ Giấy. net. Của văn thi hữu Ca Dao.
Link: http://haibogiay.net/…/T…/Nhung-Sai-Lam-cua-Hai-Hoc-Gia-149/
(Tôi viết ngày June 2, 2015 và gởi đăng sau đó)
Link: http://haibogiay.net/…/T…/Nhung-Sai-Lam-cua-Hai-Hoc-Gia-149/
(Tôi viết ngày June 2, 2015 và gởi đăng sau đó)
- Văn Chương Việt.org (tôi không nhớ tên vị chủ biên).
Link: http://www.vanchuongviet.org/index.php…
(Đăng ngày 01 tháng 9 năm 2015)
Link: http://www.vanchuongviet.org/index.php…
(Đăng ngày 01 tháng 9 năm 2015)
***
Sau khi Học Giả, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần đọc bài SỰ SAI LẦM CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN KHẮC THUẦN (ở đâu đó). Mới đây, tháng 12/2017, Ông đã phản hồi qua mail của tôi.
Trước khi đi vào bài CHIA SẺ dưới đây. Tôi xin đăng lại nguyên văn, thư Trao Đổi của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần. Và, xen kẽ vào đó là lời chia sẻ của tôi gởi đến ông.
NGUYÊN VĂN THƯ CỦA TIẾN SĨ, GIÀO SƯ HỌC GIẢ NGUYỄN KHẮC THUẦN.
“Tình cờ khi lên mạng Google xem, tôi đọc được bài phê bình của ông Thái Quốc Mưu và ông Đông Di về bản dịch trọn bộ LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP (gồm 8 tâp) của tôi do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành. Tôi rất vui vì điều ấy cũng có nghĩa hai ông đã đọc sách của tôi dù theo lời chú thích cuối bài viết, hiện nay ông Thái Quốc Mưu đang định cư tại Hoa Kỳ. Tôi nghĩ việc trao đổi hay phê bình là hoạt động rất bình thường và nhờ vậy chúng ta mới tránh bớt được sai sót. Tuy nhiên, tôi tự thấy cũng cần có vài lời trao đổi lại với ông Thái Quốc Mưu.
Thứ nhất, ông đã rất cẩn thận giới thiệu lý lịch nghề nghiệp của tôi trong bài viết của mình dù điều đó không cần thiết. Vả chăng, ông đã sao chép gần như nguyên văn bản lý lịch này trên mạng Google, nhưng đó lại là bản lý lịch không biết do ai viết, hoàn toàn không đúng với thực tế. Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. Nhưng, điều quan trọng nhất là các nhà nghiên cứu làm việc cẩn trọng không ai dễ dãi sử dụng tư liệu trên mạng. Tôi không có ý khẳng định là mạng luôn viết sai, chỉ có một nhận xét nho nhỏ là trên đó chỗ chưa đúng hơi nhiều.
Thái Quốc Mưu (TQMưu) trao đổi:
* Thưa Gs. ông viết chính xác! Phần lý lịch của ông tôi copy trên Google. Hiện, tôi không nhớ trang nào. Bởi tôi, không thể tìm tiểu sử của ông ở nơi khác. Một vài chi tiết trong tiểu sử ông có chỗ sai lầm nhỏ như ông đã nêu. Tuy nhiên, tôi cũng chân thành xin lỗi ông.
* Khi bình luận một nhân vật nào, người viết nên đặt phần tiểu sử của nhân vật ấy trên bài viết. Mục đích, cho độc giả biết nhân vật được phê bình đó là ai? Có xứng đáng để họ viết không? Tôi nghĩ đó là điều cần thiết. Thưa ông!
Trong bài phỏng vấn của một PV. Của Viện Nghiên Cứu Kỷ Lục:
PV: Nghe nói trước đây Ông từng có một thời sống trong chiến khu với nhiệm vụ cầm bút phục vụ chiến trường, có phải đó là thời mở đầu quá trình cầm bút của Ông hay không?
PV: Nghe nói trước đây Ông từng có một thời sống trong chiến khu với nhiệm vụ cầm bút phục vụ chiến trường, có phải đó là thời mở đầu quá trình cầm bút của Ông hay không?
Ông đã trả lời:
- “Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. (TQMưu trao đổi: Câu trả lời của Giáo sư đã cho thấy, chính ông đã đọc đâu đó, ông mới biết có người viết về tiêu sử của ông, qua câu trả lời phóng viên: “là bộ đội, là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng”. Thế thì, xin phép ông cho tôi được hỏi: “Ông đã đọc, thấy người ta viết sai về mình. Tại sao ông không yêu cầu họ phải chỉnh lại cho đúng với Tiểu sử của ông? Tôi nghĩ, đó là điều ông nên làm? Khi ông đã đọc, thấy họ viết về ông. Ông không phản ảnh, có nghĩa là ông đã chấp nhận họ viết về ông chính xác. Thưa, đúng không ông?)
- “Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. (TQMưu trao đổi: Câu trả lời của Giáo sư đã cho thấy, chính ông đã đọc đâu đó, ông mới biết có người viết về tiêu sử của ông, qua câu trả lời phóng viên: “là bộ đội, là người của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng”. Thế thì, xin phép ông cho tôi được hỏi: “Ông đã đọc, thấy người ta viết sai về mình. Tại sao ông không yêu cầu họ phải chỉnh lại cho đúng với Tiểu sử của ông? Tôi nghĩ, đó là điều ông nên làm? Khi ông đã đọc, thấy họ viết về ông. Ông không phản ảnh, có nghĩa là ông đã chấp nhận họ viết về ông chính xác. Thưa, đúng không ông?)
Chiến tranh là vậy, ai cũng phải sẵn sàng làm tất cả những gì có thể làm, miễn thật sự có ích cho sự nghiệp cứu nước. Trên mạng Internet chẳng hiểu ai đó đã viết rằng tôi từng có một thời là người lính, cầm vũ khí xông pha ra trận nhưng tôi chưa bao giờ có được vinh dự lớn lao đó. Tôi chỉ có may mắn được thực hiện nghĩa vụ công dân, làm việc theo sự phân công của xã hội lúc ấy là cầm bút đi phục vụ chiến trường.
Theo: http://vienkyluc.com/…/206-tr%C3%B2-chuy%E1%BB%87n-v%E1%BB%…)”
Theo: http://vienkyluc.com/…/206-tr%C3%B2-chuy%E1%BB%87n-v%E1%BB%…)”
Thứ hai, một bộ sách nặng hơn 10 kg, các ông thấy có hai chỗ sai và cộng hai chỗ này lại vẫn chưa được 10 chữ, dẫu phát hiện đúng đi chăng nữa cũng không nên lấy đó làm chuẩn để khái quát toàn bộ công trình. Thấy ai đó có một sợi tóc bạc rồi hùng hồn tuyên bố rằng tóc người đó đã bạc trắng hết, xã hội công bằng sẽ không dễ gì ủng hộ đâu. (Ý kiến của TQMưu: “Thưa ông, tôi nghĩ, giá trị ở một tác phẩm không do trọng lượng của tác phẩm ấy, mà chính ở nội dung của nó như thế nào? Đúng không? Thưa Giáo sư?” Ngoài ra, cũng trong bài tôi viết, không chỉ là “một sợi tóc bạc”, không chỉ là “chưa được 10 chữ” như ông viết. Mà, trong đó còn nhiều chỗ sai khác nữa). Tôi không muốn và cũng không thích tranh luận ồn ào nhưng nhân đây cũng xin nói lại cho rõ như sau:
- Bình đẳng như tất cả những người yêu quý và kính trọng nghề nghiệp, tôi luôn cố gắng làm tất cả những gì cần làm và có thể làm. Trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. tôi đã chú giải hết những gì tôi thấy cần chú giải và dù muốn hay không, tôi cũng phải đọc thật nhiều thư tịch cổ. Nhiều bậc đại khoa Trung Quốc rất khen ngợi tôi, còn hai ông chưa vừa lòng chắc hẳn vì ông còn đọc nhiều hơn tôi. (TQMưu, trao đổi: Thưa Gs. Khi viết đoạn trên đây, tôi nghĩ ông hơi chủ quan khi viết: “tôi cũng phải đọc thật nhiều thư tịch cổ”. Tôi thiển nghĩ, ông chưa đọc được nhiều thư tịch cổ như ông tuyên bố. Và, dường như, ông hơi tự hào khi, có “Nhiều bậc đại khoa Trung Quốc rất khen ngợi tôi”. Rất tiếc, tôi không biết những bậc đại khoa đó là những ai? Nhưng, nhìn vào thực tế, nếu quả thật “nhiều bậc đại khoa ấy rất khen ngợi tôi”, như ông nói, thì, tôi xin lỗi ông cho phép tôi được nghĩ:
1)- Đầu óc những vị đại khoa vô danh ấy có vấn đề.
2)- Có thể các ông đại khoa vô danh ấy cũng biết những chú giải sai lầm của ông. Nhưng, họ thiếu tinh thần dũng cảm, hoặc, cả nể không dám thẳng thắn nêu ra những sai lầm mà họ thấy được. Họ khen ông là khen cách xã giao, cách “nói cho vừa lòng nhau”.
Bởi, thực tế, trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP có rất nhiều chú thích sai lầm. Tôi khẳng định như vậy! Thật tình tôi không muốn nêu ra tất cả những sai lầm trong bộ sách đó của ông. Nhưng, đoạn văn trên của ông đã “ÉP” tôi phải nêu ra. Và, tôi sẽ chứng minh thêm những sai lầm trong bộ sách ấy ở phần sau).
- Nhưng, chú giải thư tịch cổ của Việt Nam nếu chỉ dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc có lẽ chưa ổn (Trao đổi của Thái Quốc Mưu: Ở đoạn văn ông viết: “Trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. tôi đã chú giải hết những gì tôi thấy cần chú giải và dù muốn hay không, tôi cũng phải đọc thật nhiều thư tịch cổ”. Nhưng, ông lại: “… nếu chỉ dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc có lẽ chưa ổn”. Thế thì, ông “đọc thật nhiều thư tịch cổ.” để làm gì? Thưa ông giáo sư!) Dù được các bậc túc Nho thương yêu nên trực tiếp giảng dạy nhưng tôi không bao giờ chấp nhận lặng lẽ ngồi yên một chỗ nghiền ngẫm trước tác của các cây đại bút thuở xưa. Nhờ chịu khó lại cũng nhờ may mắn, tôi đã tích trữ được một kho thần tích trên 500 bản và sắc phong nhiều đến hơn ngàn bản. Tôi đã công phu gạn lọc để loại bỏ những bản giả rồi phiên âm, dịch thuật, hiệu đính và chú giải, nay bước đầu công bố một phần nhỏ, quyển TỔNG TẬP SẮC PHONG VIỆT NAM của tôi đã nặng 150 kg, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (Hà Nội). Các bản thần tích và sắc phong làm giả có số lượng không nhỏ, có năm số bản giả nhiều đến hàng trăm. Ví dụ năm 1782 sau khi được kiêu binh đưa lên ngôi Chúa, Trịnh Tông (cũng tức Trịnh Khải) đã cho lấy hàng trăm tờ sắc phong để khống tặng cho kiêu binh và họ về điền tên thân thích của mình vào. Dân gian nói chung và kiêu binh nói riêng luôn luôn dựng bia theo cách của dân gian và kiêu binh. Ba chữ “Thần Đạo Bi” do ông Thái Quốc Mưu và ông Đông Di căn cứ vào các thư tịch cổ Trung Quốc để chú giải tuy có vẻ rất đúng nhưng chỉ đúng với sách vở của Trung Quốc xưa chứ không đúng với thực tế của Việt Nam ta. Tôi dịch và chú giải thư tịch cổ của người Việt trên cơ sở văn bản xưa kết hợp với kết quả khảo sát thực tế chứ có phải ngồi dịch sách của người Hoa đâu”. (TQMưu, trao đổi: Thưa ông Gs. Tôi không phủ nhận trí tuệ, công trình của ông trong bộ sách Lê Quý Đôn Toàn Tập, nhưng tôi tiếc cho công trình nghiên cứu của ông chưa hoàn hảo. Và, tôi tự thấy trách nhiệm phải vạch ra những chỗ chưa hoàn hảo ấy. Tôi nghĩ đoạn ông viết: “năm 1782 sau khi được kiêu binh đưa lên ngôi Chúa, Trịnh Tông (cũng tức Trịnh Khải) đã cho lấy hàng trăm tờ sắc phong để khống tặng cho kiêu binh và họ về điền tên thân thích của mình vào. Dân gian nói chung và kiêu binh nói riêng luôn luôn dựng bia theo cách của dân gian và kiêu binh”. Để rồi ông giải thích những tấm BIA của bọn kiêu binh đó là Thần Đạo Bi, không có tính thuyết phục. Ngôn ngữ là sự đồng thuận. Cách chú giải của ông trong ba chữ “Thần Đạo Bi”, tôi nghĩ khó thuyết phục nhiều người. Bởi, ta không thể lấy sự việc khác đem ra so sánh rồi giải nghĩa theo ý của riêng mình.
Ba chữ “Thần Đại Bi” là cổ ngữ, ông phải giải nghĩa ba chữ đó theo nghĩa chính của ba chữ ấy là gì? Sau đó, mới ghi thêm phần phụ chú theo cách nghĩ của riêng ông, như thế mới chính xác. Hơn nữa THẦN ĐẠO BI chỉ thành lập cho những người xứng đáng được lập bia, khắc lại tiểu sử trên bia để lại cho hậu thế, họ phải là những người có danh vọng, hoặc, trong giới quyền quí, hoặc trong giới trí thức có những phát kiến, việc làm hữu ích cho xã hội đương thời. Còn ông đem ba chữ Thần Đạo Bi để chỉ những tấm bia của bọn kiêu binh. Tôi nghĩ có vấn đề. Thưa ông Giáo sư!”
- “Tôi không có ý phủ định hoàn toàn ý kiến của ông Thái Quốc Mưu nhưng thiết nghĩ là mọi vấn đề luôn có nhiều cách hóa giải khác nhau. Tôi hy vọng sẽ có dịp được gặp gỡ và trò chuyện với ông bởi khi trò chuyện, thế nào tôi cũng sẽ học được từ ông những điều phù hợp với mình.”
1. “Tôi về hưu nay đã ngót hai mươi năm, tuy vẫn còn được mời đến giảng cho các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh nhưng dẫu sao cũng đã thuộc lớp nhà giáo cao niên. Nghề nghiệp và chút vị thế xã hội nho nhỏ khiến tôi phải luôn luôn chú ý giữ hình ảnh của mình, trang phục và ẩm thực, ngôn từ và tác phong, giao tiếp và chữ nghĩa... đều phải thận trọng. Tôi nghĩ là trong khắp thiên hạ, ai ai cũng sẵn lòng nghĩ và làm như tôi. Khen điều đúng nhưng đừng để bị đời chê là nịnh, không ủng hộ điều sai nhưng đừng để bị thiên hạ phê bình thiếu tôn trọng người khác dù đối tượng ta nói tới còn rất trẻ. Cụ thân sinh của tôi là bậc túc Nho, tôn sư của tôi cũng là bậc túc Nho, sinh thời vẫn luôn nhắc nhở tôi phải ghi nhớ điều này.... (TQMưu, trao đổi: Tôi không dám xúc phạm đến những vị tiền bối, nhưng, thú thật, những vị được cho là TÚC NHO ấy, ông lấy cơ sở gì làm cái mốc để gọi họ như thế? Học vị? Hoặc, lý do nào khác? Riêng phụ thân chúng tôi, người Hoa chính thống, tốt nghiệp Cử Nhân ở Đại Học Bắc Kinh, thế nhưng, tôi chưa hề nghe ai gọi phụ thân chúng tôi là “Bậc Túc Nho”. Trước tháng 4/75, Bào huynh tôi Thái Quốc Hùng, từng tốt nghiệp ở một học viện Đài Bắc, từng làm Hiệu Trưởng hai trường Hoa Ngữ tại Chợ Lớn. Bào đệ tôi Thái Quốc Tế (Kha Tiệm Ly), Giáo Sư Hán Việt dạy vài trường Trung Học ở Mỹ Tho, Sàigòn. Tôi cũng chẳng nghe ai bảo họ là TÚC NHO cả. Mặt khác, ông lấy tên Đông Di nào đó, viết trong thư gởi cho tôi, không đúng! Vị Học giả ấy, có bút danh MINH DI, trước 4/1975 từng là Giảng Sư Cao Học, Đại Học ở vài Viện Đại Học. Tôi chẳng biết khi đề cập đến tên ai đó, mà ta viết không đúng tên của họ, có phải là không được lịch sự. Đúng không? Thưa ông Giáo sư?)
“Đọc bài của ông Đông Di và ông Thái Quốc Mưu, tôi thấy hơi xa lạ với bầu khí trao đổi học thuật chân thành nên sức thuyết phục chưa cao. (Ý kiến của TQMưu: “Thưa Giáo sư, tôi xin khẳng định, trong bài viết của tôi, không phải dùng để trao đổi với ông, bởi chúng ta chưa từng biết nhau. Tôi đọc, tham khảo và viết để phê bình và thẳng thắn chỉ trích những chú giải sai lầm của ông trong bộ Lê Quý Đôn Tuyển Tập”. Hai ông và tôi đều là những người nặng lòng với chữ nghĩa. Chữ nghĩa đàng hoàng bao giờ cũng chỉ chuyển tải những giá trị nhân bản và nhân văn. Thay vì tranh luận, tôi chỉ xin gửi tới hai ông lời cảm nhận ngắn này.”
Thân ái
Ts. Nguyễn Khắc Thuần
Thân ái
Ts. Nguyễn Khắc Thuần
***
Trước, tôi chân thành biết ơn Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã có lời chia sẻ với tôi. Dưới đây, tôi xin làm rõ câu ông viết: “Thứ hai, một bộ sách nặng hơn 10 kg, các ông thấy có hai chỗ sai và cộng hai chỗ này lại vẫn chưa được 10 chữ, dẫu phát hiện đúng đi chăng nữa cũng không nên lấy đó làm chuẩn để khái quát toàn bộ công trình.” Và, tôi đã trả lời: (TQMưu: “Thưa Gs. Tôi nghĩ, khi viết đoạn trên đây, ông hơi chủ quan. Thực tế, trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP, ông có rất nhiều sai lầm. Tôi khẳng định như thế!)
DƯỚI ĐÂY, TÔI XIN CHỨNG MINH THÊM NHỮNG SAI LẦM CỦA HỌC GIẢ, TIẾN SĨ, GIÁO SƯ NGUYỄN KHẮCTHUẦN TRONG BỘ SÁCH LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. (Ở đây. tôi chỉ cô đọng và trích dẫn thật đơn giản).
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách LÍ QUẬT (1) của Hoành Cừ Tử (2) viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. trang 10).
Chú thích.
(1). LÍ QUẬT nghĩa là cái hang chứa đạo lí”. SAI!
- “Sách LÍ QUẬT (1) của Hoành Cừ Tử (2) viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. trang 10).
Chú thích.
(1). LÍ QUẬT nghĩa là cái hang chứa đạo lí”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Danh xưng đầy đủ của tác phẩm trên đây là “Kinh Nghĩa Lí Quật”. Tiếng “Lí Quật” có nghĩa là “ngôn luận đầy nghĩa lý cao xa”. Chẳng có hang hốc gì cả. Hai tiếng “Lí Quật” xuất từ tập “Thế Thuyết Tân Ngữ” của Lưu Nghĩa Khánh (403 - 444).
- Danh xưng đầy đủ của tác phẩm trên đây là “Kinh Nghĩa Lí Quật”. Tiếng “Lí Quật” có nghĩa là “ngôn luận đầy nghĩa lý cao xa”. Chẳng có hang hốc gì cả. Hai tiếng “Lí Quật” xuất từ tập “Thế Thuyết Tân Ngữ” của Lưu Nghĩa Khánh (403 - 444).
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách NGỤ GIẢN của họ Thẩm viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm.10).
Chú thích.
- “Chúng tôi chưa được rõ về tác giả người họ Thẩm và tác phẩm NGỤ GIẢN của ông”.
- “Sách NGỤ GIẢN của họ Thẩm viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm.10).
Chú thích.
- “Chúng tôi chưa được rõ về tác giả người họ Thẩm và tác phẩm NGỤ GIẢN của ông”.
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Tôi, cấp tư liệu cho ông. “Họ Thẩm ở đây là Thẩm Tác Triết (? - ?), người thời Triệu Tống (960 - 1279). Từ điển nhân danh Trung Hoa thì không thấy có tên Thẩm Tác Triết. Tiểu sử của Thẩm Tác Triết chỉ được thấy vài giòng sơ lược trong một số thư tịch về Thư mục và Từ điển về các Văn học gia.
- Thẩm Tác Triết (Khoảng trước sau năm 1147 Công nguyên còn tại thế).
- Thẩm Tác Triết (Văn Hiến Thông Khảo ghi là Trọng Triết), tên Tự là Minh Viễn, tên Hiệu là Ngụ Sơn, người ở Hồ Châu; năm sanh, năm tử của ông đều không được rõ, đại để trong khoảng trước, sau Niên hiệu Thiệu Hưng ông vẫn còn sống! Đậu tiến sĩ năm thứ 5 Niên hiệu Thiệu Hưng, trong khoảng Niên hiệu Thuần Hi với chức Tả Phụng Nghị Lang ông đổi về tỉnh Giang Tây làm việc tại Cơ quan Chuyển vận. Nhân làm thơ đụng chạm viên Trưởng Cơ quan Ngụy Đạo Bật, bị hài tội, đưa qua bên Tam quan định đoạt, ông vì thế bất đắc chí mà qua đời.
- Tác phẩm của Thẩm Tác Triết có Ngụ Sơn Tập 30 Quyển (theo Văn Hiến Thông Khảo), Ngụ Giản 10 Quyển (theo Tứ Khố Tổng Mục), về mặt khảo chứng có những nhận thức đặc biệt”.
- Vĩnh Dung (1743 - 1790) và nhóm biên soạn cuốn “Tứ Khố Toàn Thư Giản Minh Mục Lục” có một số nhận định chi tiết hơn về Thẩm Tác Triết và cuốn “Ngụ Giản, 10 quyển, Thẩm Tác Triết đời Tống soạn, viết như sau:
- Tài học và biện luận của ông tương tự Tô Thức, việc ông chê Vương An Thạch là thiển lậu, chỉ trích Trình tử, cho tới việc luận đàm về các phương diện Dưỡng sinh, nỗi say mê Thiền, về các phương diện này, lí luận của ông đều giống (Tô) Thức, nói chung đây là cái dư hưởng của Phái Mi Sơn! Về mặt khảo cứu, ông có rất nhiều kiến giải tinh thẩm, xác đáng, chỉ mỗi việc lấy Thiền giải Dịch là rườm rà, không thể coi như mẫu mực được.
- Tôi, cấp tư liệu cho ông. “Họ Thẩm ở đây là Thẩm Tác Triết (? - ?), người thời Triệu Tống (960 - 1279). Từ điển nhân danh Trung Hoa thì không thấy có tên Thẩm Tác Triết. Tiểu sử của Thẩm Tác Triết chỉ được thấy vài giòng sơ lược trong một số thư tịch về Thư mục và Từ điển về các Văn học gia.
- Thẩm Tác Triết (Khoảng trước sau năm 1147 Công nguyên còn tại thế).
- Thẩm Tác Triết (Văn Hiến Thông Khảo ghi là Trọng Triết), tên Tự là Minh Viễn, tên Hiệu là Ngụ Sơn, người ở Hồ Châu; năm sanh, năm tử của ông đều không được rõ, đại để trong khoảng trước, sau Niên hiệu Thiệu Hưng ông vẫn còn sống! Đậu tiến sĩ năm thứ 5 Niên hiệu Thiệu Hưng, trong khoảng Niên hiệu Thuần Hi với chức Tả Phụng Nghị Lang ông đổi về tỉnh Giang Tây làm việc tại Cơ quan Chuyển vận. Nhân làm thơ đụng chạm viên Trưởng Cơ quan Ngụy Đạo Bật, bị hài tội, đưa qua bên Tam quan định đoạt, ông vì thế bất đắc chí mà qua đời.
- Tác phẩm của Thẩm Tác Triết có Ngụ Sơn Tập 30 Quyển (theo Văn Hiến Thông Khảo), Ngụ Giản 10 Quyển (theo Tứ Khố Tổng Mục), về mặt khảo chứng có những nhận thức đặc biệt”.
- Vĩnh Dung (1743 - 1790) và nhóm biên soạn cuốn “Tứ Khố Toàn Thư Giản Minh Mục Lục” có một số nhận định chi tiết hơn về Thẩm Tác Triết và cuốn “Ngụ Giản, 10 quyển, Thẩm Tác Triết đời Tống soạn, viết như sau:
- Tài học và biện luận của ông tương tự Tô Thức, việc ông chê Vương An Thạch là thiển lậu, chỉ trích Trình tử, cho tới việc luận đàm về các phương diện Dưỡng sinh, nỗi say mê Thiền, về các phương diện này, lí luận của ông đều giống (Tô) Thức, nói chung đây là cái dư hưởng của Phái Mi Sơn! Về mặt khảo cứu, ông có rất nhiều kiến giải tinh thẩm, xác đáng, chỉ mỗi việc lấy Thiền giải Dịch là rườm rà, không thể coi như mẫu mực được.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Nay thấy trong KIÊN HỒ TẬP (13) có chép về……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 15).
Chú thích.
- “(13) Cũng có dịch giả phiên âm là KIÊN BIỀU TẬP nhưng căn cứ vào mặt chữ Hán, chúng tôi đọc là KIÊN HỒ TẬP. Dẫu vậy, chúng tôi cũng đồng ý rằng phải viết là KIÊN BIỀU TẬP mới đúng”.
- “Nay thấy trong KIÊN HỒ TẬP (13) có chép về……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 15).
Chú thích.
- “(13) Cũng có dịch giả phiên âm là KIÊN BIỀU TẬP nhưng căn cứ vào mặt chữ Hán, chúng tôi đọc là KIÊN HỒ TẬP. Dẫu vậy, chúng tôi cũng đồng ý rằng phải viết là KIÊN BIỀU TẬP mới đúng”.
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Trường hợp ông cho “KIÊN BIỀU TẬP” đúng, còn “KIÊN HỒ TẬP” thì sai? Thế thì tại sao ông không viết là “KIÊN BIỀU TẬP”? Cớ sao ông viết KIÊN HỒ TẬP rồi giải thích lòng vòng cuối cùng lại khẳng định KIÊN BIỀU TẬP ĐÚNG? Thế là thế nào? Thưa ông Tiến sĩ? Ngoài ra, ông không biết chữ HỒ không thể đọc là BIỀU, vì hai chữ nầy hoàn toàn khác nhau. Chữ “HỒ” nghĩa là trái Bầu - thuộc Bộ Qua (dưa), bên trái là chữ “KHOA có một số nghĩa như xa xỉ, nói quá (khoa trương) đẹp đẽ… Còn chữ “BIỀU” thì khác; chữ BIỀU cũng Bộ Qua, ở bên trái là chữ “PHIÊU” nghĩa là sáng rõ, là nhanh…
- Trường hợp ông cho “KIÊN BIỀU TẬP” đúng, còn “KIÊN HỒ TẬP” thì sai? Thế thì tại sao ông không viết là “KIÊN BIỀU TẬP”? Cớ sao ông viết KIÊN HỒ TẬP rồi giải thích lòng vòng cuối cùng lại khẳng định KIÊN BIỀU TẬP ĐÚNG? Thế là thế nào? Thưa ông Tiến sĩ? Ngoài ra, ông không biết chữ HỒ không thể đọc là BIỀU, vì hai chữ nầy hoàn toàn khác nhau. Chữ “HỒ” nghĩa là trái Bầu - thuộc Bộ Qua (dưa), bên trái là chữ “KHOA có một số nghĩa như xa xỉ, nói quá (khoa trương) đẹp đẽ… Còn chữ “BIỀU” thì khác; chữ BIỀU cũng Bộ Qua, ở bên trái là chữ “PHIÊU” nghĩa là sáng rõ, là nhanh…
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Bấy giờ, Gia Quốc Công Vũ Văn Mật làm Trấn Thủ ở Tuyên Quang vẫn theo chính sóc của Nguyên Hòa ((7)....... “. (Qu. 5. Tài Phẩm. 23).
Chú thích.
- “(7) Chính sóc của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu là Nguyên Hòa… Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”.
- “Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”. SAI!
- “Bấy giờ, Gia Quốc Công Vũ Văn Mật làm Trấn Thủ ở Tuyên Quang vẫn theo chính sóc của Nguyên Hòa ((7)....... “. (Qu. 5. Tài Phẩm. 23).
Chú thích.
- “(7) Chính sóc của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu là Nguyên Hòa… Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”.
- “Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Ông viết: “Chính (ông viết có dấu sắc) sóc của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu là Nguyên Hòa…”. Trong khi chữ CHÍNH (có dấu sắc), phải đọc là CHINH (không dấu sắc) mới đúng! CHINH là ngày đầu năm, SÓC là ngày đầu tháng (Theo Từ Điển Từ Nguyên).
- Hồ Tam Tỉnh (1230 - 1302) chú thích: “Tư Trị Thông Giám”, viết: “Thời cổ, một triều đại mới lên, để biểu thị lẽ “Ứng Thiên thừa vận” thì định lại Lịch pháp với hàm ý rằng bậc Vương giả nắm được chính sự khởi đầu từ ta, cho nên bỏ LỊCH CŨ ban hành LỊCH MỚI - Chẳng hạn Hạ triều định tháng Dần là tháng Giêng, tiếp theo đó Thương triều lại chọn Sửu làm tháng Giêng, Chu triều thì cho Tí là tháng Giêng, còn Tần triều thì tháng Giêng là tháng Hợi…
- Giáo sư giải thích như thế chưa đúng hẳn, mà phải nói là thần phục cả một triều đại đã qui định mốc CHINH SÓC cho Lịch pháp đó, tức từ lúc triều đại đó lên nắm vận mệnh Quốc gia, vì lẽ mốc Chinh Sóc vốn đã được định từ vị hoàng đế khai sáng triều đại, các vua kế tiếp cứ đó mà theo.
- Ông viết: “Chính (ông viết có dấu sắc) sóc của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu là Nguyên Hòa…”. Trong khi chữ CHÍNH (có dấu sắc), phải đọc là CHINH (không dấu sắc) mới đúng! CHINH là ngày đầu năm, SÓC là ngày đầu tháng (Theo Từ Điển Từ Nguyên).
- Hồ Tam Tỉnh (1230 - 1302) chú thích: “Tư Trị Thông Giám”, viết: “Thời cổ, một triều đại mới lên, để biểu thị lẽ “Ứng Thiên thừa vận” thì định lại Lịch pháp với hàm ý rằng bậc Vương giả nắm được chính sự khởi đầu từ ta, cho nên bỏ LỊCH CŨ ban hành LỊCH MỚI - Chẳng hạn Hạ triều định tháng Dần là tháng Giêng, tiếp theo đó Thương triều lại chọn Sửu làm tháng Giêng, Chu triều thì cho Tí là tháng Giêng, còn Tần triều thì tháng Giêng là tháng Hợi…
- Giáo sư giải thích như thế chưa đúng hẳn, mà phải nói là thần phục cả một triều đại đã qui định mốc CHINH SÓC cho Lịch pháp đó, tức từ lúc triều đại đó lên nắm vận mệnh Quốc gia, vì lẽ mốc Chinh Sóc vốn đã được định từ vị hoàng đế khai sáng triều đại, các vua kế tiếp cứ đó mà theo.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Chiêm Thành tuy là một nước nhỏ nhưng nhân tài cũng không ít”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 29).
- “Chiêm Thành tuy là một nước nhỏ nhưng nhân tài cũng không ít”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 29).
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Trong nguyên tác viết như sau: “Chiêm Thành nhất quốc nhân tài dịch phi thiểu dã!”.
Dịch nghĩa:
- “Nhân tài của cả nước Chiêm Thành cũng không phải là ít!”. Không hề có “tuy là một nước nhỏ” ở đây. Thưa ông Giáo sư.
- Trong nguyên tác viết như sau: “Chiêm Thành nhất quốc nhân tài dịch phi thiểu dã!”.
Dịch nghĩa:
- “Nhân tài của cả nước Chiêm Thành cũng không phải là ít!”. Không hề có “tuy là một nước nhỏ” ở đây. Thưa ông Giáo sư.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Nhà ở của (Lê) Niệm có tên là Thoát Hiên, ngụ ý hâm mộ ý chí khí Đào Chu (1)......”. (Qu. 5.
Tài Phẩm. 32).
Chú thích.
- “(1) Đào Chu nói ở đây là Phạm Lãi, người Trung Quốc thời Xuân Thu. Ông là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn hạ được Ngô Phù Sai, nhưng sau đó thì bỏ đi chu du khắp Ngũ Hồ chứ không chịu ra làm quan cho Việt Vương Câu Tiễn”.
- “Nhà ở của (Lê) Niệm có tên là Thoát Hiên, ngụ ý hâm mộ ý chí khí Đào Chu (1)......”. (Qu. 5.
Tài Phẩm. 32).
Chú thích.
- “(1) Đào Chu nói ở đây là Phạm Lãi, người Trung Quốc thời Xuân Thu. Ông là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn hạ được Ngô Phù Sai, nhưng sau đó thì bỏ đi chu du khắp Ngũ Hồ chứ không chịu ra làm quan cho Việt Vương Câu Tiễn”.
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Đáng lẽ ông nên chú giải thêm vì sao Phạm Lãi được gọi là Đào Chu? Đúng không ạ!
- Đáng lẽ ông nên chú giải thêm vì sao Phạm Lãi được gọi là Đào Chu? Đúng không ạ!
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP nói: lúc Lý Nam Đế cùng anh là Lý Thiên Bảo chạy vào Cửu Chân...”. (Qu. 6. Phong Vực. 76).
Chú thích.
- “Cửu Chân là tên của một quận do nhà Hán cắt đặt. Đất của quận Cửu Chân nay đại thể tương ứng với tỉnh Thanh Hóa”. SAI!
- “Sách VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP nói: lúc Lý Nam Đế cùng anh là Lý Thiên Bảo chạy vào Cửu Chân...”. (Qu. 6. Phong Vực. 76).
Chú thích.
- “Cửu Chân là tên của một quận do nhà Hán cắt đặt. Đất của quận Cửu Chân nay đại thể tương ứng với tỉnh Thanh Hóa”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Ông đã sai về Địa lý cổ! Diện tích Quận Cửu Chân thời Hán không đúng như ông chú thích.
- Quận Cửu Chân từ buổi đầu thành lập vào năm 110 trước công nguyên, trải dài xuống hơn 300 năm, cho tới hết thời kỳ Đông Hán (25 - 220), trước sau lãnh hạt vẫn bao gồm 3 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, và Hà Tĩnh ngày nay. Trên Bản đồ, Quận Cửu Chân trải từ vĩ tuyến 20o tới vĩ tuyến 18o. (Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tần. Tây Hán. Đông Hán).
- Đến thời Tam Quốc (220 - 280), Ngô triều (222 - 280) phân cắt Quận Cửu Chân mà lập Quận Cửu Đức. Trong “Tam Quốc Chí” không ghi Quận Cửu Đức lập năm nào.
- Trên Địa đồ Lịch Sử, Quận Cửu Đức gồm 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, địa thế trải từ vĩ tuyến 19o 26’ tới vĩ tuyến 18o - lãnh hạt hầu như toàn tỉnh Nghệ An trải xuống tới gần hết tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
- Như vậy, Lãnh hạt Quận Cửu Chân, từ thời điểm đó, đến năm 271 nói trên, chỉ còn một phần đất của tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
- Ông đã sai về Địa lý cổ! Diện tích Quận Cửu Chân thời Hán không đúng như ông chú thích.
- Quận Cửu Chân từ buổi đầu thành lập vào năm 110 trước công nguyên, trải dài xuống hơn 300 năm, cho tới hết thời kỳ Đông Hán (25 - 220), trước sau lãnh hạt vẫn bao gồm 3 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, và Hà Tĩnh ngày nay. Trên Bản đồ, Quận Cửu Chân trải từ vĩ tuyến 20o tới vĩ tuyến 18o. (Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tần. Tây Hán. Đông Hán).
- Đến thời Tam Quốc (220 - 280), Ngô triều (222 - 280) phân cắt Quận Cửu Chân mà lập Quận Cửu Đức. Trong “Tam Quốc Chí” không ghi Quận Cửu Đức lập năm nào.
- Trên Địa đồ Lịch Sử, Quận Cửu Đức gồm 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, địa thế trải từ vĩ tuyến 19o 26’ tới vĩ tuyến 18o - lãnh hạt hầu như toàn tỉnh Nghệ An trải xuống tới gần hết tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
- Như vậy, Lãnh hạt Quận Cửu Chân, từ thời điểm đó, đến năm 271 nói trên, chỉ còn một phần đất của tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách NGU HÀNH CHÍ của người thời Tống là Phạm Hành Nhân viết rằng…………”. (Qu. 6. Phong Vực. 100).
- “Sách NGU HÀNH CHÍ của người thời Tống là Phạm Hành Nhân viết rằng…………”. (Qu. 6. Phong Vực. 100).
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Theo nguyên tác ở bản Hán văn viết như sau: “Tống Phạm Thành Nhân Ngu Hành Chí vân vân”... Nhưng, Bản Hán văn ở đây đã in sai:
- Chữ “Nhân” (Người) ở câu trên, chính là chữ “Đại” (Lớn). Nói rõ hơn, đó là chữ “Đại”. Nhưng, trong nguyên bản đã in bị mất nét ngang nên in SAI chữ ĐẠI (thiếu nét ngang bị đọc nhầm là Nhân). Và như vậy, câu trên trong bản Hán văn phải là: “Tống Phạm Thành Đại “Ngu Hành Chí” vân vân…” mới ĐÚNG!
- Nghĩa là: “Sách Ngu Hành Chí’ của Phạm Thành Đại đời Tống”…
- Phạm Thành Đại (1126 - 1193) là tác giả của Tập “Ngu Hành Chí”, mà Tên gọi đầy đủ là Quế Hải Ngu Hành Chí, một tác phẩm quan trọng nói về vùng Biển Nam (Nam Hải) thời cổ, trong đó có đất Giao Chỉ, vào thế kỷ XII. Vì vùng Nam Hải có nhiều Quế do đó trong tựa sách có 2 chữ “Quế Hải”.
- Theo nguyên tác ở bản Hán văn viết như sau: “Tống Phạm Thành Nhân Ngu Hành Chí vân vân”... Nhưng, Bản Hán văn ở đây đã in sai:
- Chữ “Nhân” (Người) ở câu trên, chính là chữ “Đại” (Lớn). Nói rõ hơn, đó là chữ “Đại”. Nhưng, trong nguyên bản đã in bị mất nét ngang nên in SAI chữ ĐẠI (thiếu nét ngang bị đọc nhầm là Nhân). Và như vậy, câu trên trong bản Hán văn phải là: “Tống Phạm Thành Đại “Ngu Hành Chí” vân vân…” mới ĐÚNG!
- Nghĩa là: “Sách Ngu Hành Chí’ của Phạm Thành Đại đời Tống”…
- Phạm Thành Đại (1126 - 1193) là tác giả của Tập “Ngu Hành Chí”, mà Tên gọi đầy đủ là Quế Hải Ngu Hành Chí, một tác phẩm quan trọng nói về vùng Biển Nam (Nam Hải) thời cổ, trong đó có đất Giao Chỉ, vào thế kỷ XII. Vì vùng Nam Hải có nhiều Quế do đó trong tựa sách có 2 chữ “Quế Hải”.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Theo quẻ Kiền (1) đòi thời mở vận / Pháp hào sư lấy luật dụng binh”.
(Qu. 6. Phong Vực. 175).
Chú thích.
- “(1) Quẻ Kiền (hay quẻ Càn) là một trong Bát quái : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Đoài. Quẻ Kiền được coi là biểu trưng của trời, của quyền lực lớn, của cha, của con trai, của sự chắc chắn và bền vững”.
- “(2) Pháp hào sư là phép cầm quân. Hào sư trong Bát quái là hào nói về phép cầm quân”.
- “Theo quẻ Kiền (1) đòi thời mở vận / Pháp hào sư lấy luật dụng binh”.
(Qu. 6. Phong Vực. 175).
Chú thích.
- “(1) Quẻ Kiền (hay quẻ Càn) là một trong Bát quái : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Đoài. Quẻ Kiền được coi là biểu trưng của trời, của quyền lực lớn, của cha, của con trai, của sự chắc chắn và bền vững”.
- “(2) Pháp hào sư là phép cầm quân. Hào sư trong Bát quái là hào nói về phép cầm quân”.
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Quẻ Kiền, hay Quẻ Càn, đề cập ở câu trên không phải Quẻ Càn trong Bát Quái, mà là Quẻ Càn trong “Lục Thập Tứ Quái” (64 QUẺ DỊCH). Nói khác đi, Quẻ Càn nói ở đây là Quẻ Càn có 6 hào (hào là 2 loại nét liền ¾ và nét đứt - - , đơn vị cấu thành 1 Quẻ), là loại Quẻ trong Dịch học gọi là “Trùng Quái”. Gọi là “Trùng Quái” vì loại Quẻ 6 hào nầy do 2 quẻ, mỗi quẻ có 3 hào, hợp lại thành. Chữ “trùng” ở đây có nghĩa là “tầng, lớp”, ý nói lấy 1 quẻ đơn đặt lên một quẻ đơn khác thành 1 lớp, 1 tầng nữa!
- Quẻ Càn mà ông giải thích ở trên là Quẻ Càn chỉ có 3 hào, là quẻ gọi là đơn quái.
- Thứ đến, xin ông độc giả biết “Hào sư trong Bát quái” là hào gì? Ông nói hào nầy nằm “trong Bát quái”, thế thì, Bát Quái 8 X 3, 24 hào xin ông chỉ cho hào nào là “Hào sư”?
- Trong Kinh Dịch không có một hào nào gọi là “Hào sư” cả. Thưa ông Giáo sư Tiến sĩ.
- Chữ “Sư” trong tiếng “hào sư” tức chỉ Quẻ Sư (Khôn / Khảm). Sư có nghĩa là “đám đông”, là “quân đội” (quân đội cũng là một đám đông).
- Có 2 cách giải thích tiếng “hào sư”:
1). Hào của Quẻ Sư.
2). Hào là đơn vị của Quẻ, không có hào thì không thành Quẻ, do đó, “hào sư” ở đây chỉ Quẻ Sư.
Phân tích rõ nữa: Câu thơ nói: “Pháp hào Sư, lấy luật dụng binh”.
Hào Sơ lục Quẻ Sư nói:
- “Sơ lục. Sư xuất dĩ luật, phủ, tang hung!”.
- “Hào Sơ lục. Quân ra trận thì phải có kỷ luật, không có kỷ luật thì sẽ nguy!”.
Nếu đọc Kinh Dịch thì sẽ hiểu ra ngay câu thơ nói cái gì, chỉ cái gì! Như đã dẫn, ở đây câu này rõ ràng chỉ vào hào Sơ, tức hào đầu tiên của Quẻ Sư.
- Quẻ Kiền, hay Quẻ Càn, đề cập ở câu trên không phải Quẻ Càn trong Bát Quái, mà là Quẻ Càn trong “Lục Thập Tứ Quái” (64 QUẺ DỊCH). Nói khác đi, Quẻ Càn nói ở đây là Quẻ Càn có 6 hào (hào là 2 loại nét liền ¾ và nét đứt - - , đơn vị cấu thành 1 Quẻ), là loại Quẻ trong Dịch học gọi là “Trùng Quái”. Gọi là “Trùng Quái” vì loại Quẻ 6 hào nầy do 2 quẻ, mỗi quẻ có 3 hào, hợp lại thành. Chữ “trùng” ở đây có nghĩa là “tầng, lớp”, ý nói lấy 1 quẻ đơn đặt lên một quẻ đơn khác thành 1 lớp, 1 tầng nữa!
- Quẻ Càn mà ông giải thích ở trên là Quẻ Càn chỉ có 3 hào, là quẻ gọi là đơn quái.
- Thứ đến, xin ông độc giả biết “Hào sư trong Bát quái” là hào gì? Ông nói hào nầy nằm “trong Bát quái”, thế thì, Bát Quái 8 X 3, 24 hào xin ông chỉ cho hào nào là “Hào sư”?
- Trong Kinh Dịch không có một hào nào gọi là “Hào sư” cả. Thưa ông Giáo sư Tiến sĩ.
- Chữ “Sư” trong tiếng “hào sư” tức chỉ Quẻ Sư (Khôn / Khảm). Sư có nghĩa là “đám đông”, là “quân đội” (quân đội cũng là một đám đông).
- Có 2 cách giải thích tiếng “hào sư”:
1). Hào của Quẻ Sư.
2). Hào là đơn vị của Quẻ, không có hào thì không thành Quẻ, do đó, “hào sư” ở đây chỉ Quẻ Sư.
Phân tích rõ nữa: Câu thơ nói: “Pháp hào Sư, lấy luật dụng binh”.
Hào Sơ lục Quẻ Sư nói:
- “Sơ lục. Sư xuất dĩ luật, phủ, tang hung!”.
- “Hào Sơ lục. Quân ra trận thì phải có kỷ luật, không có kỷ luật thì sẽ nguy!”.
Nếu đọc Kinh Dịch thì sẽ hiểu ra ngay câu thơ nói cái gì, chỉ cái gì! Như đã dẫn, ở đây câu này rõ ràng chỉ vào hào Sơ, tức hào đầu tiên của Quẻ Sư.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Lời dạy của thánh hiền, gốc ở TRUNG DUNG (1) …… Lời dạy của Phật giáo và Lão giáo (3) (trọng ở sự) thanh tĩnh hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy sự vật, cũng là những lời dạy cao minh, để giữ độc thiện kì thân (4) thôi”.
(Qu. 9. Thiền dật. 187).
Chú thích.
- “ (1) Trung dung là một trong TỨ THƯ (Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử). Sách này vốn có nguồn gốc từ Kinh Thư trong NGŨ KINH……”. SAI!
- “ (4) Độc thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”.
- “Lời dạy của thánh hiền, gốc ở TRUNG DUNG (1) …… Lời dạy của Phật giáo và Lão giáo (3) (trọng ở sự) thanh tĩnh hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy sự vật, cũng là những lời dạy cao minh, để giữ độc thiện kì thân (4) thôi”.
(Qu. 9. Thiền dật. 187).
Chú thích.
- “ (1) Trung dung là một trong TỨ THƯ (Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử). Sách này vốn có nguồn gốc từ Kinh Thư trong NGŨ KINH……”. SAI!
- “ (4) Độc thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”.
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Ông đã chú thích SAI! Trung Dung không phải “có nguồn gốc từ Kinh Thư”! Trung Dung vốn là 1 Thiên trong sách “Lễ Ký”.
- Ông chú thích (4) “Độc thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”. Chưa đủ!
- Câu “độc thiện kì thân” là một câu trong sách “Mạnh Tử”: “Cổ chi nhân, đắc chí, trạch gia ư dân; bất đắc chí, tu thân kiến ư thế! Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ”. / Mạnh Tử. Tận Tâm. Thượng. XIII. 09 /.
- “Người xưa, gặp thời đắc chí thì ân huệ trải khắp cho dân; không gặp thời thì tu thân làm gương cho đời! Gặp hoàn cảnh khốn cùng thì riêng lo cho bản thân mình được tốt đẹp, gặp thời hiển đạt thì làm cho cả thiên hạ cùng tốt đẹp”.
- Ở đây, nói “riêng lo cho bản thân mình được tốt đẹp” là nói cái tốt đẹp tinh thần, là nói về sự “tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn”, để chờ thời ra giúp đời. Ý ở đây cũng như câu: “Quân tử tàng khí ư thân, đãi thời nhi động” trong “Kinh Dịch”.
- Lê Quí Đôn học vấn uyên bác, quán “Tứ Thư, Ngũ Kinh”, thông “Thích, Lão”, cho đến bút kí, tiểu thuyết... không loại nào Lê Quí Đôn lại không đọc qua, cho nên, nếu không đọc nhiều thì không thể hiểu kiến giải, tư tưởng của ông (Lê Quý Đôn). Bất cứ người nào chỉ dựa vào sự hiểu biết Hán văn, mà trình độ chưa khả quan, mà chú thích Hán Văn, thường không chính xác.
- Ông đã chú thích SAI! Trung Dung không phải “có nguồn gốc từ Kinh Thư”! Trung Dung vốn là 1 Thiên trong sách “Lễ Ký”.
- Ông chú thích (4) “Độc thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”. Chưa đủ!
- Câu “độc thiện kì thân” là một câu trong sách “Mạnh Tử”: “Cổ chi nhân, đắc chí, trạch gia ư dân; bất đắc chí, tu thân kiến ư thế! Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ”. / Mạnh Tử. Tận Tâm. Thượng. XIII. 09 /.
- “Người xưa, gặp thời đắc chí thì ân huệ trải khắp cho dân; không gặp thời thì tu thân làm gương cho đời! Gặp hoàn cảnh khốn cùng thì riêng lo cho bản thân mình được tốt đẹp, gặp thời hiển đạt thì làm cho cả thiên hạ cùng tốt đẹp”.
- Ở đây, nói “riêng lo cho bản thân mình được tốt đẹp” là nói cái tốt đẹp tinh thần, là nói về sự “tu dưỡng đạo đức, trau dồi học vấn”, để chờ thời ra giúp đời. Ý ở đây cũng như câu: “Quân tử tàng khí ư thân, đãi thời nhi động” trong “Kinh Dịch”.
- Lê Quí Đôn học vấn uyên bác, quán “Tứ Thư, Ngũ Kinh”, thông “Thích, Lão”, cho đến bút kí, tiểu thuyết... không loại nào Lê Quí Đôn lại không đọc qua, cho nên, nếu không đọc nhiều thì không thể hiểu kiến giải, tư tưởng của ông (Lê Quý Đôn). Bất cứ người nào chỉ dựa vào sự hiểu biết Hán văn, mà trình độ chưa khả quan, mà chú thích Hán Văn, thường không chính xác.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Vưu Đồng (4) nói:....... “. (Qu. 9. Thiền Dật. 189).
Chú thích.
- “(4) Vưu Đồng: tên một triết gia của Trung Quốc thời cổ đại”. Hoàn toàn SAI!
- “Vưu Đồng (4) nói:....... “. (Qu. 9. Thiền Dật. 189).
Chú thích.
- “(4) Vưu Đồng: tên một triết gia của Trung Quốc thời cổ đại”. Hoàn toàn SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Thưa ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần, Vưu Đồng (1618 - 1704) chưa bao giờ là “một triết gia”. Không sống vào thời Trung Quốc cổ đại (như ông chú thích).
- Vưu Đồng (1618 - 1704) tên Tự là Đồng Nhân, và một tên Tự nữa là Triển Thành, tên Hiệu là Hối Am, Tây Đường Lão Nhân, Cấn Ông (có Sách chép Cấn Trai), quê ở Trường Châu (Ngô huyện, tỉnh Giang Tô). Ông là một thi từ gia, một nhà soạn Hí khúc (tức Kịch), và phê bình Hí khúc vào sơ kỳ Thanh triều. Năm 1679, ông đậu Khoa Bác học Hồng Từ, nhận chức Kiểm Thảo tại Hàn Lâm Viện, là chức quan có trách vụ biên soạn Quốc sử, vị dưới chức Biên Tu một bậc. Sau đó Vưu Đồng tham gia việc biên tập “Minh Sử”, được 3 năm thì xin về.
- Về Thi văn tập, Vưu Đồng có: Tây Đường Toàn Tập. Hạc Dậu Đường.
- Về truyền kỳ tiểu thuyết, có: Quân Thiên Lạc.
- Về Tạp kịch, có: Độc Li Tao. Điếu Tì Bà. Đào Hoa Nguyên. Hắc Bạch Vệ. Thanh Bình Điệu. Vở kịch sau cùng còn có tên Lý Bạch Đăng Khoa Ký.
- Thưa ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần, Vưu Đồng (1618 - 1704) chưa bao giờ là “một triết gia”. Không sống vào thời Trung Quốc cổ đại (như ông chú thích).
- Vưu Đồng (1618 - 1704) tên Tự là Đồng Nhân, và một tên Tự nữa là Triển Thành, tên Hiệu là Hối Am, Tây Đường Lão Nhân, Cấn Ông (có Sách chép Cấn Trai), quê ở Trường Châu (Ngô huyện, tỉnh Giang Tô). Ông là một thi từ gia, một nhà soạn Hí khúc (tức Kịch), và phê bình Hí khúc vào sơ kỳ Thanh triều. Năm 1679, ông đậu Khoa Bác học Hồng Từ, nhận chức Kiểm Thảo tại Hàn Lâm Viện, là chức quan có trách vụ biên soạn Quốc sử, vị dưới chức Biên Tu một bậc. Sau đó Vưu Đồng tham gia việc biên tập “Minh Sử”, được 3 năm thì xin về.
- Về Thi văn tập, Vưu Đồng có: Tây Đường Toàn Tập. Hạc Dậu Đường.
- Về truyền kỳ tiểu thuyết, có: Quân Thiên Lạc.
- Về Tạp kịch, có: Độc Li Tao. Điếu Tì Bà. Đào Hoa Nguyên. Hắc Bạch Vệ. Thanh Bình Điệu. Vở kịch sau cùng còn có tên Lý Bạch Đăng Khoa Ký.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách THƯỢNG THƯ CỐ THỰC (1) nói rằng…… (Qu. 9. Thiền Dật. 191).
- Sách THÁI BÌNH QUẢNG KÍ (2) nói:……”. (Như trên. 192).
Chú thích.
- “(1) THƯỢNG THƯ CỐ THỰC: Chúng tôi chưa được rõ về sách này.
- “(2) THÁI BÌNH QUẢNG KÍ là công trình biên soạn chung của nhiều triết gia Trung Quốc, thời Tống. Đây là một trong những bộ sách rất lớn”. SAI!
- “Sách THƯỢNG THƯ CỐ THỰC (1) nói rằng…… (Qu. 9. Thiền Dật. 191).
- Sách THÁI BÌNH QUẢNG KÍ (2) nói:……”. (Như trên. 192).
Chú thích.
- “(1) THƯỢNG THƯ CỐ THỰC: Chúng tôi chưa được rõ về sách này.
- “(2) THÁI BÌNH QUẢNG KÍ là công trình biên soạn chung của nhiều triết gia Trung Quốc, thời Tống. Đây là một trong những bộ sách rất lớn”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
Tôi xin cấp tư liệu cho ông:
1)- Tập “Thượng Thư Cố Thực” của Lý Xước (…? - …?) triều Đường viết, nội dung ghi chép những dật văn, tạp sự thời Đường, thỉnh thoảng có xen vào vài câu khảo đính, nhưng nhìn chung luận đàm về Thư pháp và Hội Họa chiếm phần lớn Sách này. Tự thuật tuy đa số là tạp sự nhưng thường trưng dẫn nghĩa cổ, dẫn chứng quảng bác, có rất nhiều tư liệu về phương diện khảo chứng.
- Danh xưng “Thượng Thư” trong tên tựa sách của Lý Xước là tên Tự hay tên Hiệu của một người. Ông nầy là huyền tôn (chắt) của Trương Gia Trinh (666 - 729), tên ông đến nay chưa khảo được! Lý Xước mỗi lần đi đây đó thường tới ở nhà Thượng Thư, ghi chép những gì ông nầy nói mà soạn thành tập “Thượng Thư Cố Thực”.
2)- Về “Thái Bình Quảng Ký”, chú thích của ông trong chú thích (2) nầy, giống như chẳng chú thích gì cả, chưa nói là có điểm. SAI!
- Khi ông chú thích “tác phẩm được nhiều triết gia biên soạn”, có thể gây hiểu lầm đây là một tác phẩm Triết học.
- Bộ “Thái Bình Quảng Ký” do một Ban biên tập soạn, Lý Phưởng (925 - 996) chủ biên. Khởi soạn năm 977, năm sau thì soạn xong, nhưng đến năm 981 mới khắc bản in. Nội dung phân theo đề tài, và gồm 92 đề tài lớn, phụ hơn 150 tiểu loại, sưu tập hết sức phong phú, trưng dẫn dã sử, truyền kì, tiểu thuyết từ các triều Hán, Đường cho tới đầu triều Tống, cộng được vào khoảng trên dưới 500 tác phẩm trong đó có nhiều tác phẩm đã thất truyền, nhờ bộ “Quảng Ký” nầy mà thấy lại những tác phẩm đã thất truyền đó.
- Cùng năm 977 Lý Phưởng cũng được lệnh Thái Tông (939 - 997; tại vị: 976 - 997) soạn bộ “Thái Bình Ngự Lãm”. Ban biên tập gồm 14 người - trong đó Lý Phưởng, Hổ Mông đồng chủ biên. Khởi soạn ngày 17 / 3 năm 977, hoàn tất ngày 19/12 năm 984.
Tôi xin cấp tư liệu cho ông:
1)- Tập “Thượng Thư Cố Thực” của Lý Xước (…? - …?) triều Đường viết, nội dung ghi chép những dật văn, tạp sự thời Đường, thỉnh thoảng có xen vào vài câu khảo đính, nhưng nhìn chung luận đàm về Thư pháp và Hội Họa chiếm phần lớn Sách này. Tự thuật tuy đa số là tạp sự nhưng thường trưng dẫn nghĩa cổ, dẫn chứng quảng bác, có rất nhiều tư liệu về phương diện khảo chứng.
- Danh xưng “Thượng Thư” trong tên tựa sách của Lý Xước là tên Tự hay tên Hiệu của một người. Ông nầy là huyền tôn (chắt) của Trương Gia Trinh (666 - 729), tên ông đến nay chưa khảo được! Lý Xước mỗi lần đi đây đó thường tới ở nhà Thượng Thư, ghi chép những gì ông nầy nói mà soạn thành tập “Thượng Thư Cố Thực”.
2)- Về “Thái Bình Quảng Ký”, chú thích của ông trong chú thích (2) nầy, giống như chẳng chú thích gì cả, chưa nói là có điểm. SAI!
- Khi ông chú thích “tác phẩm được nhiều triết gia biên soạn”, có thể gây hiểu lầm đây là một tác phẩm Triết học.
- Bộ “Thái Bình Quảng Ký” do một Ban biên tập soạn, Lý Phưởng (925 - 996) chủ biên. Khởi soạn năm 977, năm sau thì soạn xong, nhưng đến năm 981 mới khắc bản in. Nội dung phân theo đề tài, và gồm 92 đề tài lớn, phụ hơn 150 tiểu loại, sưu tập hết sức phong phú, trưng dẫn dã sử, truyền kì, tiểu thuyết từ các triều Hán, Đường cho tới đầu triều Tống, cộng được vào khoảng trên dưới 500 tác phẩm trong đó có nhiều tác phẩm đã thất truyền, nhờ bộ “Quảng Ký” nầy mà thấy lại những tác phẩm đã thất truyền đó.
- Cùng năm 977 Lý Phưởng cũng được lệnh Thái Tông (939 - 997; tại vị: 976 - 997) soạn bộ “Thái Bình Ngự Lãm”. Ban biên tập gồm 14 người - trong đó Lý Phưởng, Hổ Mông đồng chủ biên. Khởi soạn ngày 17 / 3 năm 977, hoàn tất ngày 19/12 năm 984.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Mộc-hoạn là niệm châu (7)”. (Qu. 9. Thiền Dật. 211).
Chú thích.
- “(7) Niệm châu nghĩa là vừa tụng niệm vừa lần tràng hạt”. SAI!
- “Mộc-hoạn là niệm châu (7)”. (Qu. 9. Thiền Dật. 211).
Chú thích.
- “(7) Niệm châu nghĩa là vừa tụng niệm vừa lần tràng hạt”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) viết:
- “Mộc Hoạn Tử. (Thực vật). “Hựu danh vô hoạn tử, mộc thụ năng tịch tà quỉ cố danh “vô hoạn”. Kì thực khả dĩ vi niệm châu, vị chi mộc hoạn tử. Phạm danh a lê sắt ca tử (arista)”.
Dịch nghĩa:
- “Mộc Hoạn tử: (Thực vật). Cũng gọi vô hoạn tử, gỗ cây có thể trừ tà quỉ bởi thế mà có tên là “vô hoạn” (không lo lắng). Trái của cây có thể dùng để làm xâu chuỗi, được gọi là mộc hoạn tử. Tiếng Phạn gọi là a lê sắt ca tử (arista)”.
Phụ chú:
- Chữ “Hoạn” trong “Mộc Hoạn Tử” gồm bên trái là bộ “Mộc”, bên phải là chữ “Hoạn” có nghĩa là điều lo rầu, tai nạn, là bệnh…, như nói “hậu hoạn”, “bệnh hoạn”, “họa hoạn”.
- Niệm châu còn gọi Số châu, Phật châu.
- Trong thư tịch cổ Trung Quốc - trong Kinh Sử và trong Y Dược Học, mộc hoạn tử có rất nhiều danh xưng khác nhau. Trong phần lớn các sách “Bản Thảo” (tức Sách thuốc) tên chính thức của mộc hoạn tử là “vô hoạn tử”.
- Lý Thời Trân (1518 - 1593) cho biết một vài tên gọi khác của vô hoạn tử, như: “Tục danh Quỉ kiến sầu. Thích gia thủ vi số châu, cố vị chi Bồ đề tử”.
- Bản Thảo Cương Mục. Qu. XXXV Hạ. Mộc: Kiều mộc loại. Vô hoạn tử.
- “Tên gọi bình dân là Quỉ kiến sầu. Người ở bên Phật giáo lấy trái của cây này làm xâu chuỗi niệm, do đó gọi là Bồ đề tử”.
- Mộc hoạn tử là 1 dược liệu, tên khoa học là Sapindus mukorossi Gaertn.
Công dụng:
Trái (hơi độc). Giải nhiệt, trừ đàm; cầm tiêu chảy; trị bạch hầu, cổ họng kéo đàm; viêm khí quản, ho dai dẳng; viêm bao tử và đường ruột cấp tính; dùng ngoài da để trị chứng ngứa làm da nổi sần, con nít ốm o (cam tích).
Rễ. Giải nhiệt, giải độc, tiêu đàm, ho hen; làm tan máu bầm; cảm mạo nóng sốt cao, và chứng huyết trắng của phụ nữ, và rắn độc cắn.
Vỏ cây. Trị bạch hầu, ghẻ ngứa, phong cùi.
Lá cây. Dùng ngoài da đắp lên vết rắn cắn.
(Tham khảo Toàn Quốc Trung Thảo Dược Danh Giám. Tra mã số 7198022)
- Tập “Thảo Dược học” trên đây liệt kê tất cả 77 tên gọi của cây vô hoạn tử, phân theo 2 phương diện:
1). Tên gọi trong Sách vở (Văn hiến danh): 26 tên gọi.
2). Tên gọi Địa phương: 51 tên gọi.
- Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) viết:
- “Mộc Hoạn Tử. (Thực vật). “Hựu danh vô hoạn tử, mộc thụ năng tịch tà quỉ cố danh “vô hoạn”. Kì thực khả dĩ vi niệm châu, vị chi mộc hoạn tử. Phạm danh a lê sắt ca tử (arista)”.
Dịch nghĩa:
- “Mộc Hoạn tử: (Thực vật). Cũng gọi vô hoạn tử, gỗ cây có thể trừ tà quỉ bởi thế mà có tên là “vô hoạn” (không lo lắng). Trái của cây có thể dùng để làm xâu chuỗi, được gọi là mộc hoạn tử. Tiếng Phạn gọi là a lê sắt ca tử (arista)”.
Phụ chú:
- Chữ “Hoạn” trong “Mộc Hoạn Tử” gồm bên trái là bộ “Mộc”, bên phải là chữ “Hoạn” có nghĩa là điều lo rầu, tai nạn, là bệnh…, như nói “hậu hoạn”, “bệnh hoạn”, “họa hoạn”.
- Niệm châu còn gọi Số châu, Phật châu.
- Trong thư tịch cổ Trung Quốc - trong Kinh Sử và trong Y Dược Học, mộc hoạn tử có rất nhiều danh xưng khác nhau. Trong phần lớn các sách “Bản Thảo” (tức Sách thuốc) tên chính thức của mộc hoạn tử là “vô hoạn tử”.
- Lý Thời Trân (1518 - 1593) cho biết một vài tên gọi khác của vô hoạn tử, như: “Tục danh Quỉ kiến sầu. Thích gia thủ vi số châu, cố vị chi Bồ đề tử”.
- Bản Thảo Cương Mục. Qu. XXXV Hạ. Mộc: Kiều mộc loại. Vô hoạn tử.
- “Tên gọi bình dân là Quỉ kiến sầu. Người ở bên Phật giáo lấy trái của cây này làm xâu chuỗi niệm, do đó gọi là Bồ đề tử”.
- Mộc hoạn tử là 1 dược liệu, tên khoa học là Sapindus mukorossi Gaertn.
Công dụng:
Trái (hơi độc). Giải nhiệt, trừ đàm; cầm tiêu chảy; trị bạch hầu, cổ họng kéo đàm; viêm khí quản, ho dai dẳng; viêm bao tử và đường ruột cấp tính; dùng ngoài da để trị chứng ngứa làm da nổi sần, con nít ốm o (cam tích).
Rễ. Giải nhiệt, giải độc, tiêu đàm, ho hen; làm tan máu bầm; cảm mạo nóng sốt cao, và chứng huyết trắng của phụ nữ, và rắn độc cắn.
Vỏ cây. Trị bạch hầu, ghẻ ngứa, phong cùi.
Lá cây. Dùng ngoài da đắp lên vết rắn cắn.
(Tham khảo Toàn Quốc Trung Thảo Dược Danh Giám. Tra mã số 7198022)
- Tập “Thảo Dược học” trên đây liệt kê tất cả 77 tên gọi của cây vô hoạn tử, phân theo 2 phương diện:
1). Tên gọi trong Sách vở (Văn hiến danh): 26 tên gọi.
2). Tên gọi Địa phương: 51 tên gọi.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Bà-lợi-chất-ba-la nghĩa là viên sinh thụ (5) “ (Qu. 9. Thiền Dật. 212).
Chú thích.
- “(5) Viên sinh thụ (in chữ Hán) có lẽ là viên hương thụ (chữ Hán) mới đúng. Viên hương thụ nghĩa là cây gỗ tròn mà thơm”. SAI!
- “Bà-lợi-chất-ba-la nghĩa là viên sinh thụ (5) “ (Qu. 9. Thiền Dật. 212).
Chú thích.
- “(5) Viên sinh thụ (in chữ Hán) có lẽ là viên hương thụ (chữ Hán) mới đúng. Viên hương thụ nghĩa là cây gỗ tròn mà thơm”. SAI!
* Thái Quốc Mưu chia sẻ:
- Thưa ông Tiến sĩ, Chữ đúng là “Viên Sinh Thụ”, không là “Viên hương thụ” như ông sửa.
- Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo viết: “Viên Sinh Thụ (tạp danh). Thụ danh. Tại ‘Đao Lợi Thiên’ kiến thành chi Đông bắc.
- Câu Xá Luận thập nhất viết: Đông bắc Viên Sinh thụ.
- Đồng Tụng sớ viết: Thành ngoại Đông bắc hữu Viên Sinh thụ, thị tam thập tam Thiên thụ dục lạc sở dã. Kì Viên Sinh Thụ bàn căn thâm, quảng ngũ thập du thiện na, tủng cán thượng thăng, chi diệp bàng bố, cao, quảng lượng đẳng bách do thiện na, đỉnh diệp khai hoa, diệu hương phân phức. Thuận phong huân mãn bách do thiện na, nghịch phong thời do biến ngũ thập”.
Dịch nghĩa:
- “Viên Sinh Thụ (tên tạp). Tên cây. (Cây) ở phía Đông bắc thành cõi “Trời Đao Lợi”.
- Câu Xá Luận quyển XI nói: Cây Viên Sinh ở phía Đông bắc.
- Lời chú giải cũng trong bài Tụng quyển này viết: Ngoài thành, ở mé Đông bắc có cây Viên Sinh, là nơi 33 cõi Trời hưởng thụ dục lạc. Cây Viên Sinh này rễ ngoằn ngoèo, ăn sâu, trải rộng 50 du thiện na, thân cây vút cao cành lá vươn bốn phía, thân cao, cành trải rộng cả trăm do thiện na, hoa nở trên cành lá cao chót vót, mùi thơm ngạt ngào! Thuận gió thì hương bay xa 100 do thiện na, còn gió ngược thì cũng lan xa 50 do thiện na”.
Phụ chú: Du thiện na là 1 đơn vị đo độ dài, có thuyết nói là 40 dặm, tục Ấn Độ định là 30 dặm.
- Du thiện na còn được gọi là Do thiện na, Du tuần, Do tuần, Do diên, Du đồ na).
- Thưa ông Tiến sĩ, Chữ đúng là “Viên Sinh Thụ”, không là “Viên hương thụ” như ông sửa.
- Bộ “Phật Học Đại Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo viết: “Viên Sinh Thụ (tạp danh). Thụ danh. Tại ‘Đao Lợi Thiên’ kiến thành chi Đông bắc.
- Câu Xá Luận thập nhất viết: Đông bắc Viên Sinh thụ.
- Đồng Tụng sớ viết: Thành ngoại Đông bắc hữu Viên Sinh thụ, thị tam thập tam Thiên thụ dục lạc sở dã. Kì Viên Sinh Thụ bàn căn thâm, quảng ngũ thập du thiện na, tủng cán thượng thăng, chi diệp bàng bố, cao, quảng lượng đẳng bách do thiện na, đỉnh diệp khai hoa, diệu hương phân phức. Thuận phong huân mãn bách do thiện na, nghịch phong thời do biến ngũ thập”.
Dịch nghĩa:
- “Viên Sinh Thụ (tên tạp). Tên cây. (Cây) ở phía Đông bắc thành cõi “Trời Đao Lợi”.
- Câu Xá Luận quyển XI nói: Cây Viên Sinh ở phía Đông bắc.
- Lời chú giải cũng trong bài Tụng quyển này viết: Ngoài thành, ở mé Đông bắc có cây Viên Sinh, là nơi 33 cõi Trời hưởng thụ dục lạc. Cây Viên Sinh này rễ ngoằn ngoèo, ăn sâu, trải rộng 50 du thiện na, thân cây vút cao cành lá vươn bốn phía, thân cao, cành trải rộng cả trăm do thiện na, hoa nở trên cành lá cao chót vót, mùi thơm ngạt ngào! Thuận gió thì hương bay xa 100 do thiện na, còn gió ngược thì cũng lan xa 50 do thiện na”.
Phụ chú: Du thiện na là 1 đơn vị đo độ dài, có thuyết nói là 40 dặm, tục Ấn Độ định là 30 dặm.
- Du thiện na còn được gọi là Do thiện na, Du tuần, Do tuần, Do diên, Du đồ na).
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “.... Về sau các học giả như Huệ Viễn (3), Tăng Triệu (4) mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang, Liệt (5), mà thêm vào”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(3) Huệ Viễn là pháp danh tình cờ trùng hợp của hai nhà sư Trung Quốc. Một người gốc họ Lý (thế kỷ VII), tác giả PHÁP TÍNH LUẬN và một người gốc họ Giả (thế kỉ X), tác giả của ĐẠI
THỪA KINH NGHĨA. Chưa rõ sách nầy chỉ Huệ Viễn nào. SAI!
- “(4) Tăng Triệu là tên của một nhà sư người Trung Quốc sống vào cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, đệ tử của Kumârajiva (Cưu Ma La Thập, cũng gọi là Dao Tần). Tăng Triệu có công dịch kinh sách nhà Phật Bắc Phạn ra tiếng Trung Quốc”. SAI!
- “.... Về sau các học giả như Huệ Viễn (3), Tăng Triệu (4) mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang, Liệt (5), mà thêm vào”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(3) Huệ Viễn là pháp danh tình cờ trùng hợp của hai nhà sư Trung Quốc. Một người gốc họ Lý (thế kỷ VII), tác giả PHÁP TÍNH LUẬN và một người gốc họ Giả (thế kỉ X), tác giả của ĐẠI
THỪA KINH NGHĨA. Chưa rõ sách nầy chỉ Huệ Viễn nào. SAI!
- “(4) Tăng Triệu là tên của một nhà sư người Trung Quốc sống vào cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, đệ tử của Kumârajiva (Cưu Ma La Thập, cũng gọi là Dao Tần). Tăng Triệu có công dịch kinh sách nhà Phật Bắc Phạn ra tiếng Trung Quốc”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Huệ Viễn mà Lê Quí Đôn đề cập chẳng phải là Huệ Viễn nào trong 2 nhà sư ông đã chú thích.
- Huệ Viễn nói ở đây, trong sách của Lê Quí Đôn, là Huệ Viễn sống trong khoảng thời kỳ Đông Tấn (317 - 420), tức trong khoảng từ đầu thế kỉ thứ IV đến đầu thế kỉ thứ V.
- Sư Huệ Viễn này chính là Sơ tổ (Tổ đầu tiên) của Tịnh Độ Tông trong Phật Giáo. Về năm sinh, năm viên tịch của Tổ Huệ Viễn đến nay vô khả khảo.
- “Kiến Văn Tiểu Lục” đã liệt kê nhân vật theo thứ tự thời gian. Trước là đề cập Huệ Viễn thời Đông Tấn, kế tới Tăng Triệu (384 - 414) thời Thập Lục Quốc (304 - 436).
- Tiếp đó, ông giải thích: Cưu Ma La Thập (344 - 413) “cũng gọi là Dao Tần”.
- Diêu Tần là tên triều đại, chứ không là tên khác của Cưu Ma La Thập. Cao tăng này là Quốc sư của triều Hậu Tần (384 - 417). Thời Thập Lục Quốc có 2 triều Tần, một là Tiền Tần (351 - 394) do Phù Kiện (317 - 355; tại vị: 351 - 355) khai sáng, và triều kia là Hậu Tần do Diêu Trường (330 - 393; tại vị: 384 - 393) sáng lập. Để khỏi lẫn lộn, Sử gia gọi Tiền Tần là Phù Tần, và Hậu Tần là Diêu Tần, tức gọi theo tên họ của vị hoàng đế khai sáng triều đại. Ông viết Dao Tần. SAI!
- Huệ Viễn mà Lê Quí Đôn đề cập chẳng phải là Huệ Viễn nào trong 2 nhà sư ông đã chú thích.
- Huệ Viễn nói ở đây, trong sách của Lê Quí Đôn, là Huệ Viễn sống trong khoảng thời kỳ Đông Tấn (317 - 420), tức trong khoảng từ đầu thế kỉ thứ IV đến đầu thế kỉ thứ V.
- Sư Huệ Viễn này chính là Sơ tổ (Tổ đầu tiên) của Tịnh Độ Tông trong Phật Giáo. Về năm sinh, năm viên tịch của Tổ Huệ Viễn đến nay vô khả khảo.
- “Kiến Văn Tiểu Lục” đã liệt kê nhân vật theo thứ tự thời gian. Trước là đề cập Huệ Viễn thời Đông Tấn, kế tới Tăng Triệu (384 - 414) thời Thập Lục Quốc (304 - 436).
- Tiếp đó, ông giải thích: Cưu Ma La Thập (344 - 413) “cũng gọi là Dao Tần”.
- Diêu Tần là tên triều đại, chứ không là tên khác của Cưu Ma La Thập. Cao tăng này là Quốc sư của triều Hậu Tần (384 - 417). Thời Thập Lục Quốc có 2 triều Tần, một là Tiền Tần (351 - 394) do Phù Kiện (317 - 355; tại vị: 351 - 355) khai sáng, và triều kia là Hậu Tần do Diêu Trường (330 - 393; tại vị: 384 - 393) sáng lập. Để khỏi lẫn lộn, Sử gia gọi Tiền Tần là Phù Tần, và Hậu Tần là Diêu Tần, tức gọi theo tên họ của vị hoàng đế khai sáng triều đại. Ông viết Dao Tần. SAI!
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Phủ Đại Lý của tỉnh Vân Nam (6) ở gần với Thiên Trúc (7), tập tục đề cao Phù Đồ (8) “. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(8) Phù Đồ (Dagoba) là tháp thờ Phật, tháp thờ di cốt của các vị tổ dòng tu Phật giáo”.
- “Phủ Đại Lý của tỉnh Vân Nam (6) ở gần với Thiên Trúc (7), tập tục đề cao Phù Đồ (8) “. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(8) Phù Đồ (Dagoba) là tháp thờ Phật, tháp thờ di cốt của các vị tổ dòng tu Phật giáo”.
* Thái Quốc Mưu chia sẻ:
- Phù Đồ là tiếng dịch khác của Phật Đà, tức chỉ Đức Phật; bởi vậy Phật giáo còn được gọi là Phù Đồ đạo, những người theo Phật giáo được gọi là Phù Đồ.
- Phù Đồ còn có các tên gọi Phù Đầu, Phật Đồ, Phù Đà, Bộ Đà, Hưu Đồ, và Vật Tha…Về sau tiếng Phù Đồ lại mới được dùng để chỉ Phật Tháp.
- Ngoài ra, Phật tháp, Hán Việt còn có Toát đổ ba - gọi tắt thì gọi Toát đổ, và 1 số nữa như Suất đô bà, Tố đổ ba, Tẩu đấu bà...... tất cả đều là phiên âm từ tiếng “Stupa”.
(Tham khảo Đinh Phúc Bảo, Phật Học Đại Từ Điển).
- Vương An Thạch (1021 - 1086) có mấy bài Luật thi đề cập tiếng Toát đổ, Toát đổ ba:
Đạo Lâm chân cốt táng thanh tiêu,
Toát đổ thiên thu vị tịch liêu.
/ Vương Lâm Xuyên Tập. Qu. XVII. Luật thi 4. Bắc Sơn tam vịnh. Bảo công tháp /.
Đạo Lâm xương thánh gởi mây xanh,
Tháp Phật thiên thu chẳng lặng tanh.
Và một bài khác:
Chu Ngung trạch tác a lan nhã,
Lũ ước thâm qui toát đổ ba.
/ Sđd. Qu. XXIX. Luật thi 16. Dữ Đạo Nguyên quá Tây Trang toại du Bảo Thặng /.
Chu Ngung nhà lấy làm tăng xá,
Những hẹn mong về tháp Phật đà….
- Phù Đồ là tiếng dịch khác của Phật Đà, tức chỉ Đức Phật; bởi vậy Phật giáo còn được gọi là Phù Đồ đạo, những người theo Phật giáo được gọi là Phù Đồ.
- Phù Đồ còn có các tên gọi Phù Đầu, Phật Đồ, Phù Đà, Bộ Đà, Hưu Đồ, và Vật Tha…Về sau tiếng Phù Đồ lại mới được dùng để chỉ Phật Tháp.
- Ngoài ra, Phật tháp, Hán Việt còn có Toát đổ ba - gọi tắt thì gọi Toát đổ, và 1 số nữa như Suất đô bà, Tố đổ ba, Tẩu đấu bà...... tất cả đều là phiên âm từ tiếng “Stupa”.
(Tham khảo Đinh Phúc Bảo, Phật Học Đại Từ Điển).
- Vương An Thạch (1021 - 1086) có mấy bài Luật thi đề cập tiếng Toát đổ, Toát đổ ba:
Đạo Lâm chân cốt táng thanh tiêu,
Toát đổ thiên thu vị tịch liêu.
/ Vương Lâm Xuyên Tập. Qu. XVII. Luật thi 4. Bắc Sơn tam vịnh. Bảo công tháp /.
Đạo Lâm xương thánh gởi mây xanh,
Tháp Phật thiên thu chẳng lặng tanh.
Và một bài khác:
Chu Ngung trạch tác a lan nhã,
Lũ ước thâm qui toát đổ ba.
/ Sđd. Qu. XXIX. Luật thi 16. Dữ Đạo Nguyên quá Tây Trang toại du Bảo Thặng /.
Chu Ngung nhà lấy làm tăng xá,
Những hẹn mong về tháp Phật đà….
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Cao tăng nước ta không phải ít… Nay chỉ thấy có mấy bài thơ của các bậc tài giỏi chép trong LOẠI HÀM (13) …”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(13) LOẠI HÀM: chúng tôi chưa được đọc sách này”.
- “Cao tăng nước ta không phải ít… Nay chỉ thấy có mấy bài thơ của các bậc tài giỏi chép trong LOẠI HÀM (13) …”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích:
- “(13) LOẠI HÀM: chúng tôi chưa được đọc sách này”.
* Thái Quốc Mưu chia sẻ:
Tôi cấp tư liệu cho ông:
- Bộ “LOẠI HÀM” đề cập trên đây là tên gọi tắt của “Uyên Giám Loại Hàm”, 1 bộ Loại thư do Thanh Thánh tổ (1654 - 1722; tại vị: 1661 - 1722) ra lệnh soạn, hoàn tất năm 1710.
- Bộ “Uyên Giám Loại Hàm” do nhóm Trương Anh (1637 - 1708) căn cứ các điều lệ của Bộ “Đường Loại Hàm” của Du An Kỳ (? - ?) đời Minh, tăng điều mục mà soạn thành.
- Uyên Giám là tên một cái Thư trai (Phòng đọc sách) trong Cung.
- Bộ “Loại Hàm” sau này gồm 450 Quyển, phân thành 43 Bộ, tóm 2,536 tiểu loại, tập lục văn chương, sự tích các triều Minh (1368 - 1644), Nguyên (1279 - 1368) về trước, mục trưng dẫn cực kì phong phú! Số quyển của Uyên Giám Loại Hàm tuy chỉ non nửa của Bộ Thái Bình Ngự Lãm (1000 Quyển) nhưng về thiên chương thì “Loại Hàm” lại nhiều gấp 2 lần “Ngự Lãm”.
- Đã đi vào lãnh vực Cổ học nói chung và Sử học Trung Quốc nói riêng thì một học giả không thể không biết những tên gọi tắt của các tác phẩm cổ, chẳng hạn:
- Thuyết Văn là tên giản lược của Thuyết Văn Giải Tự.
- Thích Văn là tên giản lược của Kinh Điển Thích Văn.
- Ngự Lãm là tên giản lược của Thái Bình Ngự Lãm.
- Hoàn Vũ Ký là tên giản lược của Thái Bình Hoàn Vũ Ký.
- Ngu Hành Chí là tên giản lược của Quế Hải Ngu Hành Chí.
- Thông Khảo là tên giản lược của Văn Hiến Thông Khảo.
Tôi cấp tư liệu cho ông:
- Bộ “LOẠI HÀM” đề cập trên đây là tên gọi tắt của “Uyên Giám Loại Hàm”, 1 bộ Loại thư do Thanh Thánh tổ (1654 - 1722; tại vị: 1661 - 1722) ra lệnh soạn, hoàn tất năm 1710.
- Bộ “Uyên Giám Loại Hàm” do nhóm Trương Anh (1637 - 1708) căn cứ các điều lệ của Bộ “Đường Loại Hàm” của Du An Kỳ (? - ?) đời Minh, tăng điều mục mà soạn thành.
- Uyên Giám là tên một cái Thư trai (Phòng đọc sách) trong Cung.
- Bộ “Loại Hàm” sau này gồm 450 Quyển, phân thành 43 Bộ, tóm 2,536 tiểu loại, tập lục văn chương, sự tích các triều Minh (1368 - 1644), Nguyên (1279 - 1368) về trước, mục trưng dẫn cực kì phong phú! Số quyển của Uyên Giám Loại Hàm tuy chỉ non nửa của Bộ Thái Bình Ngự Lãm (1000 Quyển) nhưng về thiên chương thì “Loại Hàm” lại nhiều gấp 2 lần “Ngự Lãm”.
- Đã đi vào lãnh vực Cổ học nói chung và Sử học Trung Quốc nói riêng thì một học giả không thể không biết những tên gọi tắt của các tác phẩm cổ, chẳng hạn:
- Thuyết Văn là tên giản lược của Thuyết Văn Giải Tự.
- Thích Văn là tên giản lược của Kinh Điển Thích Văn.
- Ngự Lãm là tên giản lược của Thái Bình Ngự Lãm.
- Hoàn Vũ Ký là tên giản lược của Thái Bình Hoàn Vũ Ký.
- Ngu Hành Chí là tên giản lược của Quế Hải Ngu Hành Chí.
- Thông Khảo là tên giản lược của Văn Hiến Thông Khảo.
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Phân thân đi giáo hóa ở Nhật Nam (2). (Qu. 9. Thiền Dật. 218).
Chú thích:
- “(2) Nhật Nam là tên một trong số ba quận (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam) vốn là đất xưa của Âu Lạc bị nhà Hán cắt đặt để đô hộ. Đất Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên - Huế”. SAI!
- “Phân thân đi giáo hóa ở Nhật Nam (2). (Qu. 9. Thiền Dật. 218).
Chú thích:
- “(2) Nhật Nam là tên một trong số ba quận (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam) vốn là đất xưa của Âu Lạc bị nhà Hán cắt đặt để đô hộ. Đất Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên - Huế”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu:
- Quận Nhật Nam thời Tây Hán không nhỏ như ông viết.
- Căn cứ Bản đồ Lịch sử thời Tây Hán, Quận Nhật Nam, từ Bắc xuống Nam, trải từ: Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 12o 48’. Tức từ một mảnh đất rất nhỏ, không đáng kể, ở miền Nam của tỉnh Hà Tĩnh, trải xuống tỉnh Quảng Bình, đến một phần miền Bắc tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) hiện nay.
- Trong khi đó, sau khi nước Lâm Ấp được thành lập năm 192 khoảng cách Bắc – Nam của Quận Nhật Nam đã thu ngắn lại, trải từ vĩ tuyến 18o tới vĩ tuyến 16o – tức giới địa ở phía Nam chỉ tới Hải cảng Đà Nẵng hiện nay, tức lãnh địa mất đi trải dài 3o 12’.
Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ nhị Sách. Tần. Tây Hán. Đông Hán thời kỳ.
- Tây Hán thời kỳ. Bản đồ 35 – 36. Giao Chỉ Thích Sử Bộ.
- Đông Hán thời kỳ. Bản đồ 63 – 64. Giao Châu Thích Sử Bộ].
- Ông Tiến sĩ nói, “Quận Nhật Nam là đất xưa của Âu Lạc” Không có Chân Lạp nào ở đấy cả!
Và…
Ông viết: “Đất Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên – Huế”.
- Ở đoạn trên chúng tôi đã đưa ra sự thay đổi về mặt Địa lý Hành chánh của Quận Nhật Nam từ thời kỳ Tây Hán qua Đông Hán. Các thời sau 2 thời này lại có thay đổi nữa.
- Sau đó, tiếp đến các thời Tam Quốc (220 - 280), đời Tây Tấn (265 - 317) phân giới của Quận Nhật Nam lại thay đổi.
- Căn cứ Bản đồ Lịch sử thì Quận Nhật Nam thời Tam Quốc trải từ Bắc xuống Nam: Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 16o 36’, tức ranh giới phía Nam, giới hạn ở sông Thọ Lãnh tỉnh Quảng Trị hiện nay, sát bên trị sở Tỉnh. Thọ Lãnh tức sông Thạch Hãn hiện nay. Thời kỳ nầy Quận Nhật Nam thuộc Ngô triều (222 - 280) ở mạn Nam Đại Giang.
- Năm 278, Ngô triều phế Quận Nhật Nam, nhập Quận Cửu Đức. Sau khi tiêu diệt Ngô triều vào tháng 3 năm 280 thì 2 năm sau, đến năm 282, Tấn triều cho hồi phục Quận Nhật Nam.
Phụ chú.
- Ngô triều đầu hàng quân Tấn ngày Nhâm Thân (mồng 7) tháng 3 năm Canh Tý (280).
Tham khảo Tam Quốc Chí. Qu. XLVIII. Ngô thư. Qu. III. Tam chủ Truyện. Tôn Hạo].
- Đến triều Đông Tấn (317 - 420) Nhật Nam không còn thuộc Trung Quốc, đất cũ của Quận từ Vĩ tuyến 16o trở xuống Lâm Ấp chiếm lãnh hết.
Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ tam Sách. Tam Quốc. Tây Tấn thời kỳ.
- Tam Quốc thời kỳ – Ngô. Bản đồ 30 – 31. Giao Châu
- Tây Tấn thời kỳ. Bản đồ 57 - 58. Giao Châu / Quảng Châu..
- Quận Nhật Nam thời Tây Hán không nhỏ như ông viết.
- Căn cứ Bản đồ Lịch sử thời Tây Hán, Quận Nhật Nam, từ Bắc xuống Nam, trải từ: Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 12o 48’. Tức từ một mảnh đất rất nhỏ, không đáng kể, ở miền Nam của tỉnh Hà Tĩnh, trải xuống tỉnh Quảng Bình, đến một phần miền Bắc tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) hiện nay.
- Trong khi đó, sau khi nước Lâm Ấp được thành lập năm 192 khoảng cách Bắc – Nam của Quận Nhật Nam đã thu ngắn lại, trải từ vĩ tuyến 18o tới vĩ tuyến 16o – tức giới địa ở phía Nam chỉ tới Hải cảng Đà Nẵng hiện nay, tức lãnh địa mất đi trải dài 3o 12’.
Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ nhị Sách. Tần. Tây Hán. Đông Hán thời kỳ.
- Tây Hán thời kỳ. Bản đồ 35 – 36. Giao Chỉ Thích Sử Bộ.
- Đông Hán thời kỳ. Bản đồ 63 – 64. Giao Châu Thích Sử Bộ].
- Ông Tiến sĩ nói, “Quận Nhật Nam là đất xưa của Âu Lạc” Không có Chân Lạp nào ở đấy cả!
Và…
Ông viết: “Đất Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên – Huế”.
- Ở đoạn trên chúng tôi đã đưa ra sự thay đổi về mặt Địa lý Hành chánh của Quận Nhật Nam từ thời kỳ Tây Hán qua Đông Hán. Các thời sau 2 thời này lại có thay đổi nữa.
- Sau đó, tiếp đến các thời Tam Quốc (220 - 280), đời Tây Tấn (265 - 317) phân giới của Quận Nhật Nam lại thay đổi.
- Căn cứ Bản đồ Lịch sử thì Quận Nhật Nam thời Tam Quốc trải từ Bắc xuống Nam: Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 16o 36’, tức ranh giới phía Nam, giới hạn ở sông Thọ Lãnh tỉnh Quảng Trị hiện nay, sát bên trị sở Tỉnh. Thọ Lãnh tức sông Thạch Hãn hiện nay. Thời kỳ nầy Quận Nhật Nam thuộc Ngô triều (222 - 280) ở mạn Nam Đại Giang.
- Năm 278, Ngô triều phế Quận Nhật Nam, nhập Quận Cửu Đức. Sau khi tiêu diệt Ngô triều vào tháng 3 năm 280 thì 2 năm sau, đến năm 282, Tấn triều cho hồi phục Quận Nhật Nam.
Phụ chú.
- Ngô triều đầu hàng quân Tấn ngày Nhâm Thân (mồng 7) tháng 3 năm Canh Tý (280).
Tham khảo Tam Quốc Chí. Qu. XLVIII. Ngô thư. Qu. III. Tam chủ Truyện. Tôn Hạo].
- Đến triều Đông Tấn (317 - 420) Nhật Nam không còn thuộc Trung Quốc, đất cũ của Quận từ Vĩ tuyến 16o trở xuống Lâm Ấp chiếm lãnh hết.
Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Đệ tam Sách. Tam Quốc. Tây Tấn thời kỳ.
- Tam Quốc thời kỳ – Ngô. Bản đồ 30 – 31. Giao Châu
- Tây Tấn thời kỳ. Bản đồ 57 - 58. Giao Châu / Quảng Châu..
***
* Tiến sĩ, Học giả Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sơn vũ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm la,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
………………………
Dịch nghĩa:
Nửa đêm (1) gió thu tạt vào riềm mái nhà
Nhà núi lặng lẽ gối lên thảm xanh
………… “. (Qu. 9. Thiền Dật. 241)
Chú thích:
- “(1) Ngọ dạ (chữ Hán) là chữ của nguyên tác nhưng chúng tôi cho là bán dạ (Hán tự) mới đúng vì bán dạ nghĩa là nửa đêm còn ngọ dạ là vô nghĩa. Xin sửa là bán dạ”. SAI!
- “Sơn vũ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm la,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
………………………
Dịch nghĩa:
Nửa đêm (1) gió thu tạt vào riềm mái nhà
Nhà núi lặng lẽ gối lên thảm xanh
………… “. (Qu. 9. Thiền Dật. 241)
Chú thích:
- “(1) Ngọ dạ (chữ Hán) là chữ của nguyên tác nhưng chúng tôi cho là bán dạ (Hán tự) mới đúng vì bán dạ nghĩa là nửa đêm còn ngọ dạ là vô nghĩa. Xin sửa là bán dạ”. SAI!
* Chia sẻ của Thái Quốc Mưu
- Thưa ông Tiến sĩ, tôi chẳng hiểu vì sao Hai chữ NGỌ DẠ người ta viết ĐÚNG ông lại sửa nó thành BÁN DẠ cho SAI!
- Nửa đêm đúng là “Ngọ dạ”.
- Từ điển Từ Nguyên: Ngọ dạ. Bán dạ”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- Từ điển Từ Hải: “Ngọ dạ. Vị bán dạ dã”. // Nghĩa là: “Ý nói nửa đêm”.
- Từ điển Từ Vị: “Ngọ dạ. Dạ bán”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- NGỌ nguyên nghĩa là giữa trưa, người ta đã lấy cái ý “Giữa” nầy ghép với chữ “dạ” để chỉ “giữa đêm”, “nửa đêm”.
- Cũng thế, thời cổ 10 ngày được gọi là một “tuần”, sau đó người ta đã lấy cái ý “10” nầy ghép trong các tiếng chỉ tuổi như “ngũ tuần” là “50 tuổi”, “lục tuần” là “60 tuổi”...…
- Tiếng Ngọ dạ trong thi ca:
a). Trong bài “Tần Cung” Lý Hạ (790 - 816) đời Đường (618 - 907) có các câu:
Phi song phức đạo truyền trù ẩm,
Ngọ dạ đồng bàn nhị chúc hoàng.
Song cao lối gác chuyền đồ uống,
Đêm nửa khay đồng ánh nến vàng.
b).Trong bài “Vịnh Trúc” Đường Ngạn Khiêm (? - ?) cuối thời Đường có các câu:
Nguyệt minh ngọ dạ sinh hư lại,
Ngộ thính phong thanh thị vũ thanh.
Nửa đêm trăng sáng mơ hồ tiếng,
Tiếng gió nghe lầm ấy tiếng mưa.
c). Vi Trang (836 - 910) trong bài “Ức Tích”:
Tích niên tằng hướng Ngũ Lăng du,
Ngọ dạ thanh ca nguyệt mãn lâu.
Ngũ Lăng năm cũ từng phiêu du,
Tiếng hát nửa đêm trăng khắp lầu.
Phụ chú. Thanh ca là ca mà không có nhạc khí đệm.
Hai câu này dẫn trong “Kim Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi” (Qu. VII Hạ).
- Trong Bản Chú giải “Vi Trang Tập Tiên Chú” của Nhiếp An Phúc 2 chữ “Ngọ dạ” chép là “Tý dạ”, cũng có nghĩa là “nửa đêm”
- Trưng dẫn trên đây, theo ông cho rằng “ngọ dạ là vô nghĩa”. SAI!
- Thưa ông Tiến sĩ, tôi chẳng hiểu vì sao Hai chữ NGỌ DẠ người ta viết ĐÚNG ông lại sửa nó thành BÁN DẠ cho SAI!
- Nửa đêm đúng là “Ngọ dạ”.
- Từ điển Từ Nguyên: Ngọ dạ. Bán dạ”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- Từ điển Từ Hải: “Ngọ dạ. Vị bán dạ dã”. // Nghĩa là: “Ý nói nửa đêm”.
- Từ điển Từ Vị: “Ngọ dạ. Dạ bán”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- NGỌ nguyên nghĩa là giữa trưa, người ta đã lấy cái ý “Giữa” nầy ghép với chữ “dạ” để chỉ “giữa đêm”, “nửa đêm”.
- Cũng thế, thời cổ 10 ngày được gọi là một “tuần”, sau đó người ta đã lấy cái ý “10” nầy ghép trong các tiếng chỉ tuổi như “ngũ tuần” là “50 tuổi”, “lục tuần” là “60 tuổi”...…
- Tiếng Ngọ dạ trong thi ca:
a). Trong bài “Tần Cung” Lý Hạ (790 - 816) đời Đường (618 - 907) có các câu:
Phi song phức đạo truyền trù ẩm,
Ngọ dạ đồng bàn nhị chúc hoàng.
Song cao lối gác chuyền đồ uống,
Đêm nửa khay đồng ánh nến vàng.
b).Trong bài “Vịnh Trúc” Đường Ngạn Khiêm (? - ?) cuối thời Đường có các câu:
Nguyệt minh ngọ dạ sinh hư lại,
Ngộ thính phong thanh thị vũ thanh.
Nửa đêm trăng sáng mơ hồ tiếng,
Tiếng gió nghe lầm ấy tiếng mưa.
c). Vi Trang (836 - 910) trong bài “Ức Tích”:
Tích niên tằng hướng Ngũ Lăng du,
Ngọ dạ thanh ca nguyệt mãn lâu.
Ngũ Lăng năm cũ từng phiêu du,
Tiếng hát nửa đêm trăng khắp lầu.
Phụ chú. Thanh ca là ca mà không có nhạc khí đệm.
Hai câu này dẫn trong “Kim Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi” (Qu. VII Hạ).
- Trong Bản Chú giải “Vi Trang Tập Tiên Chú” của Nhiếp An Phúc 2 chữ “Ngọ dạ” chép là “Tý dạ”, cũng có nghĩa là “nửa đêm”
- Trưng dẫn trên đây, theo ông cho rằng “ngọ dạ là vô nghĩa”. SAI!
***
Thưa Giáo Sư, Học Giả, Tiến Sĩ Nguyễn Khắc Thuần,
Những điều ông chú giải SAI trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP, tôi đã trích dẫn trên đây chỉ là một phần, trong nhiều chú giải sai lầm khác của ông. Trong trường hợp ông không tin lời tôi viết ở đây. Và, nếu ông tiếp tục “khuyến khích”, tôi sẽ viết thêm.
Qua bài viết của tôi, có điều chi ông không hài lòng, xin miễn thứ. Và, vui lòng, liên lạc với tôi qua Email: danviet1995@aol.com.
Kính chúc sức khỏe ông cùng gia đình.
Kính chúc sức khỏe ông cùng gia đình.
Kính!
Atlanta, Jan. 01, 2018
Thái Quốc Mưu
Atlanta, Jan. 01, 2018
Thái Quốc Mưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét