(85) 狐假虎威 [hồ giả hổ uy] Phiên âm Bắc Kinh [hú jiǎ hǔ wēi ] (cáo
mượn oai hùm). Dịch sang tiếng Anh Borrowing power to do evil
[Cáo mượn oai
hùm - câu chuyện ngụ ngôn quen thuộc. Chuyện này ngày xưa đã có và bây giờ cũng
chẳng hiếm đâu]. Chuyện này có xuất xứ từ “Chiến quốc sách – Sở sách 1”
“Cáo mượn oai hùm” là một câu thành ngữ quen
thuộc trong dân gian. Câu này dùng để ví một kẻ ranh ma nào đấy, luôn dựa vào
thế lực của ai đó mà chèn ép hoặc lòe bịp những người cả tin, ngây thơ, hoặc mượn
cái oai của ai đó để doạ dẫm người khác. Ví dụ: “Cứ mỗi lần về làng là lão Vấn
lại đem chuyện lên triều đình gặp vua của mình ra dọa. Ai cũng sợ. Đúng là cáo
mượn oai hùm”. (Tổng tập Văn học Việt Nam)
Chắc chúng ta
từng nghe nói đến loài cáo. Đó là một loài thú ăn thịt, gần giống chó, sống ở rừng,
chân thấp, tai to, mồm dài và nhọn. Còn hùm là tên gọi khác của hổ. Hổ (hay
hùm) là một loại thú lớn, cùng họ với mèo, lông màu vàng hoặc trắng, có vằn
đen. Hùm là con vật rất hung dữ, hay ăn thịt các con vật khác. Người ta hay nói
“miệng hùm nọc rắn” để nói về sự nguy hiểm của nó. Nếu so sánh, rõ ràng, cáo là
con vật dù khôn đến mấy cũng kém loài hùm (hổ) về tầm vóc, sức mạnh và sự hiểm
độc.
Chuyện kể rằng,
có một con hùm đói mồi đang lang thang kiếm ăn trong rừng thì gặp ngay chú cáo
chạy qua. Hùm ta mừng lắm vì chắc mẩm sẽ có một bữa chén. Biết được điều nguy
hiểm đang đến với mình, nhưng con cáo ranh mãnh kia bèn nói: “Này ông hùm ông hổ
kia ơi. Ông đừng có mà ăn thịt tôi nhé. Thượng đế vừa ban lệnh cho tôi làm chúa
tể của muôn loài rồi đó. Không tin, ông cứ thử đi đằng trước, tôi đi đằng sau
xem có con vật nào trong rừng này trông thấy tôi mà không sợ nào?”. Hùm bán tin
bán nghi nhưng cũng thử làm. Quả nhiên, hai con này đi đến đâu, các con vật
khác trông thấy đều khiếp vía kinh hoàng, chạy tán loạn. Hùm thấy vậy cứ tin lời
cáo là thực. Kì tình, mọi con vật sợ hãi chính vì khiếp cái oai hùm kia chứ sợ
gì cáo đâu. Cáo đắc chí, bảo hùm: “Ngươi thấy chưa? Muôn loài đã biết lệnh của
Thượng đế rồi mà ngươi không hay gì”. Hùm nghe vậy cúp đuôi lủi mất. Thế là cáo
thoát nạn. Nó còn dương dương tự đắc, nhảy quàng vào rừng chộp một vài chú sóc
con mà nhai ngấu nghiến.
Cáo mượn oai
hùm chính là câu thành ngữ, chỉ sự khôn ngoan, nhanh trí của con cáo ranh ma.
Bây giờ, trong cuộc sống, người ta dùng thành ngữ này để chỉ những ai cũng có
thái độ như vậy. Họ chuyên mượn uy quyền người khác đi dọa dẫm, đe nẹt người
khác để trục lợi:
Lấy hùm ra dọa muôn loài
Cáo kia khôn vặt, chẳng ai sánh bằng…
Cáo kia khôn vặt, chẳng ai sánh bằng…
(Theo PGS- TS Phạm văn Tình FB Tinh
Pham Van)
Yết hậu ngữ:狐狸跟着老虎走 [hồ li căn trước lão hổ tẩu] (cáo đi cùng hổ)
Phân tích ngữ pháp: “狐” là chủ ngữ; “威” là vị ngữ; “假虎” là trạng ngữ của “威”.
(86) 白面书生 [Bạch diện thư sinh]
Đời
nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ
nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố
trận.
Niên hiệu Nguyên gia thứ 27, Tống Văn đế
muốn mở mang bờ cõi về phương Bắc, sai nhóm Vương Huyền Mô đem quân Bắc phạt.
Trầm Khánh Chi hết lời can ngăn, lại đưa ra trường hợp của nhiều vị vua trước, đã nhiều lần Bắc phạt nhưng
đều thất bạị Tống Văn đế liền cử 2 vị quan văn ra tranh luận với Trầm Khánh Chi. Trầm Khánh Chi nói :
- Giữ việc nước, cũng như lo việc nhà
vậỵ Muốn bàn luận về việc cày ruộng thì phải bàn luận với 1 nông phu nhiều kinh nghiệm.
Muốn bàn luận về việc canh cửi thì phải bàn
luận với người đàn bà dệt vải. Nay Bệ hạ muốn mở chiến tranh với nước
khác, mà lại để những người bạch diện thư sinh không 1
chút kinh nghiệm về quân sự đứng ra bàn luận,
thì làm sao mà thành công được.
Tống
Văn đế không nghe lời Trầm Khánh Chi, cứ cho đem quân
đánh phương Bắc, và quả nhiên bại trận nặng nề.
Từ câu nói của Trầm Khánh Chi mà người
đời sau rút ra thành ngữ "Bạch
diện thư sinh" để chỉ người trẻ tuổi, chỉ có cái học sách vở, không có kinh nghiệm gì và không biết đối phó với thực tế ngoài đời.
Cận
nghĩa với thành ngữ này là: 文弱书生 (thư sinh nho nhã yếu ớt)
Phản
nghĩa với thành ngữ này là: 彪形大汉 (thân hình vạm vỡ)
(86) 改邪归正 [cải tà qui chính] (cải
tà qui chính),
phiên âm Bắc Kinh “gǎi
xié guī zhèng”. 邪
[tà]: không chính đáng, không thuộc phái chính nghĩa, phi nghĩa, 归[ qui]: trở về. Từ con đường phi nghĩa trở về con đường
chính, không làm việc xấu. Thành ngữ này có xuất xứ từ bộ tiểu thuyết “Thủy hử”
của nhà văn Thi Nại Am thời Minh, chương 91: “Tướng quân hãy bỏ tà qui chính, hết mình cùng quốc gia, ắt
sẽ được triều đình trọng dụng.”
Cận nghĩa với thành ngữ này là: 改过自新 [ cải qúa tự tân] (sửa chữa
sai lầm tự đổi mới) 弃暗投明 (bỏ gian tà
theo chính nghĩa).
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét