Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021

CHÙM THƠ DỊCH TỪ CHỮ HÁN CỦA TRẦN MỸ GIỐNG TRÊN TRANMYGIONG.BLOGSPOT.COM

 



送友人

 

李白

青山橫北郭,

白水遶東城。  
此地一為別,  
孤蓬萬里征。  
浮雲遊子意,  
落日故人情。  
揮手自茲去,  

蕭蕭班馬鳴。

 

   Phiên âm:    TỐNG HỮU NHÂN

 

                           Lý Bạch

 

       Thanh sơn hoành bắc quách,
       Bạch thủy nhiễu đông thành.
       Thử địa nhất vi biệt,
       Cô bồng vạn lý chinh.
       Phù vân du tử ý,
       Lạc nhật cố nhân tình.
       Huy thủ tự tư khứ,
       Tiêu tiêu ban mã minh.

 

Dịch nghĩa: 

 

 TIỄN BẠN

  Non xanh chắn ngang vòng thành ngoài phía bắc,
 Nước bạc lượn quanh trong khu thành phía đông.
 Nơi đây, một khi, đã chia tay nhau rồi,
 Thì khác gì cỏ bồng lẻ loi trôi biệt vạn lý.
 Lòng dạ khách đi buồn như áng mây nổi,
 Tình bạn cũ với nhau sầu như bóng chiều tà.
 Vẫy tay tiễn, thôi từ nay bạn lên đường,

Ngựa xa bầy cất tiếng rền rĩ nghe càng thêm xót lòng.

 

Dịch thơ:

 Non xanh bao phía bắc
Nước bạc lượn đằng đông
Nơi đây khi tiễn biệt
Lẻ loi tựa cỏ bồng
Dạ khách buồn mây nổi
Tình bạn sầu chiều buông
Vẫy tay nay tiễn biệt
Tiếng ngựa xa xót lòng.

 

 

薄暮

 

杜甫

 

江水長流地,  
山雲薄暮時。  
寒花隱亂草,  
宿鳥擇深枝。  
舊國見何日,  
高秋心苦悲。  
人生不再好,  

鬢發白成絲。

 

              Phiên âm:  BẠC MỘ

 

                                  Đỗ Phủ

       Giang thuỷ trường lưu địa,
       Sơn vân bạc mộ thì.
       Hàn hoa ẩn loạn thảo,
       Túc điểu trạch lâm chi.
       Cựu quốc kiến hà nhật?
       Cao thu tâm khổ bi!
       Nhân sinh bất tái hảo,
       Mấn phát tự thành ti.

      

Dịch nghĩa:

 

CHIỀU HÔM

 

Nơi này nước sông chảy hoài
Lúc chiều hôm nhuộm màu mây núi
Hoa lạnh lẽo nấp trong đám cỏ rối
Chim ngủ đêm chọn nơi cây cành rậm rạp
Ngày nào thấy lại đất nước cũ đây ?
Trời thu lồng lộng khiến lòng người buồn thêm !
(Ngẫm ) đời người ta không dễ được nhiều may mắn,
(Vậy mà) mấy chốc, tóc đà bạc trắng như tơ !

 

Dịch thơ:

       Đất này sông chảy mãi

Ráng chiều nhuộm núi mây

Hoa lạnh trong cỏ rối

Cành rậm chim ngủ say

Nước cũ khi nào thấy?

Thu lộng lòng buồn thay

Đời người dễ may mắn?

Chốc đà bạc tóc mây

 

()

 

白居易

 

离离原上草,  
一歲一枯榮。  
野火燒不盡,  
春風吹又生。  
遠芳侵古道,  
晴翠接荒城。  
又送王孫去,  

萋萋滿別情。

 

       Phiên âm:

PHÚ ĐẮC CỔ NGUYÊN THẢO TỐNG BIỆT
                     (Thảo)

                     Bạch Cư Dị

 

       Ly ly nguyên thượng thảo,
       Nhất tuế nhất khô vinh.
       Dã hỏa thiêu bất tận,
       Xuân phong xuy hựu sinh.
       Viễn phương xâm cổ đạo,
       Tình thúy tiếp hoang thành.
       Hựu tống vương tôn khứ,
       Thê thê mãn biệt tình.

 

Dịch nghĩa:

 

    Phú đắc: cỏ trên cao nguyên xưa đưa tiễn

 

Cỏ mọc trên đồng tốt bời,
Hằng năm một lần tươi rồi lần úa
Lửa đốt đồng thiêu thế nào cũng không cháy hết
Khi gió xuân về lại nảy nở sinh sôi
Mùi cỏ thơm lan xa tận lối cũ
Sắc xanh tươi kế đến thành hoang
Giờ đưa vương tôn đi xa
(Cỏ) chứa chan bời bời nỗi ly biệt ...

 

Dịch thơ:

 

Bời bời đồng cỏ tốt

Tươi, úa năm một lần

       Lửa thiêu chẳng cháy hết

Xuân về lại hồi sinh

Cỏ thơm lan lối cũ

Thành hoang sắc tươi xanh

Lại tiễn vương tôn nữa

Ly biệt lòng chứa chan

 

 

見渭水思秦川

 

岑參

渭水東流去,     
何時到雍州.     

憑添兩行淚,

寄向故園流.

 

 Phiên âm:

                            

Kiến Vị Thủy tư Tần Xuyên

         

                     Sầm Than

 

       Vị thuỷ đông lưu khứ,
       Hà thời đáo Ung Châu.
       Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
       Ký hướng cố viên lưu.

 

 Dịch nghĩa:

 

         THẤY SÔNG VỊ NHỚ ĐẤT TẦN

 

Thấy sông Vị Thủy nhớ đất Tần Xuyên

       Sông Vị xuôi dòng về hướng đông..
       Đến khi nào chảy qua Ung châu,
       Nhờ mang giúp đôi dòng lệ
       Về quê cũ nỗi niềm (của ta)

 _______

 

Chú thích:
       Sông Vị thuỷ, khởi nguồn từ huyện Lũng tây (Cam Túc ), chảy hướng đông nam vào tỉnh Thiểm Tây, chuyển hướng đông để nhập sông Hoàng Hà. Tần Xuyên, chỉ vùng đất thuộc nước Tần cũ. Ung Châu, tên châu đời Đường, nay thuộc Tây An, tỉnh Thiểm Tây.

 

Dịch thơ:

 

Sông Vỵ chảy hướng đông

Khi nào qua châu Ung

Chuyển giúp đôi dòng lệ

Nỗi niềm về cố hương

 

 

  春題湖上

 

白居易

湖上春來似畫圖,
亂峰圍繞水準鋪。

松排山面千重翠,

月點波心一顆珠。

碧毯線頭抽早稻,

青羅裙帶展新蒲。

未能拋得杭州去,

一半勾留是此湖。

 

Phiên âm:

 

Xuân đề hồ thượng

                     

 Bạch Cư Dị

 

 Hồ thượng xuân lai tự họa đồ,

Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô.
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy,
Nguyệt điểm ba tâm nhất khỏa châu.
Bích thảm tuyết đầu trừu tảo đạo,
Thanh la quần đái triển tân bồ.
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ,
Nhất bán câu lưu thị thử hồ.

Dịch nghĩa: 

Mùa xuân đề thơ trên hồ

Xuân về, cảnh hồ như một bức tranh
Núi lô nhô bao quanh mặt nước phẳng lặng
Ngàn thông trên núi trập trùng xanh ngắt
Ánh trăng rọi sóng nước như muôn hạt ngọc châu
Lúa sớm trổ bông trải như tấm thảm biếc
Cỏ bồ mới nảy tựa như dải quần lụa xanh
(Ta) chưa thể bỏ Hàng Châu đi ngay được
Phân nửa vì bịn rịn cảnh hồ này.

 

Dịch thơ:

 

Xuân về hồ nước đẹp bức tranh

Phẳng lặng mặt gương núi uốn quanh

Trên núi ngàn thông màu xanh ngắt

Dưới hồ sóng ngọc ánh trăng thanh

Đơm bông lúa sớm như thảm biếc

Nảy lộc cỏ bồ tựa lụa xanh

Chẳng bỏ Hàng Châu đi sớm được

Phần vì bịn rịn cảnh xuân tình

 

 

春日獨酌 (其一)

 

李白

東風扇淑氣,  
水木榮春暉。  
白日照綠草,  
落花散且飛。  
孤云還空山,  
眾鳥各已歸。  
彼物皆有托,  
吾生獨無依。  
對此石上月,

長醉歌芳菲。

 

       Phiên âm:

Xuân nhật độc chước (kỳ nhất)

Lý Bạch

 

       Đông phong phiến thục khí,
       Thủy mộc vinh xuân huy.
       Bạch nhật chiếu lục thảo,
       Lạc hoa tán thả phi.
       Cô vân hoàn không sơn,
       Chúng điểu các dĩ quy.
       Bỉ vật giai hữu thác,
       Ngô sinh độc vô y.

Đối thử thạch thượng nguyệt
       Trường túy ca phương phi.

 

Dịch nghĩa:

 

 Ngày xuân uống rượu một mình (Kỳ 1)

 

Gió xuân thổi khí trời huyên hòa
Nước, cỏ cây tươi thắm giữa tiết xuân
Ánh dương tỏa chiếu cỏ xanh
Hoa rụng cánh tung bay khắp nơi
Vầng mây lẻ bay về núi vắng
Đám chim đều bay về tổ
Mọi vật đều có nơi nương tựa
Ta đây sinh ra biết nương tựa vào ai
Kìa ánh trăng sáng soi ghềnh đá,
Say khướt (ta) ca lên bài phương phi

 

Dịch thơ:

Gió xuân huyên hòa khí

Cây, nước thắm tiết xuân

Cỏ xanh vàng ánh nắng

Hoa rụng tung khắp miền

Đàn chim bay về tổ

Vầng mây hướng tới non

Mọi vật có nơi tựa

Riêng ta vẫn một mình

Kìa trăng soi ghềnh đá

Say khướt ta ca xuân

 

 

春山夜月

 

于良史

 

春山多勝事,

賞翫夜忘歸。  
掬水月在手,  
弄花香滿衣。  
興來無遠近,  
欲去惜芳菲。  
南望鳴鐘處,  

樓臺深翠微。

 

   Phiên âm: 

 

XUÂN SƠN NGUYỆT DẠ

 

                     Vu Lương Sử

 

       Xuân sơn đa thắng sự,
       Thưởng ngoạn dạ vong quy.
       Cúc thủy nguyệt tại thủ,
       Lộng hoa hương mãn y.
       Hứng lai vô viễn cận,
       Dục khứ tích phương phi.
       Nam vọng minh chung xứ,
       Lâu đài thâm thuý vi.

 

Dịch nghĩa:

 

Đêm trăng trên núi mùa xuân

 

Núi mùa xuân nhiều cảnh đẹp

Thưởng ngoạn đêm buông rồi mà quên về nhà
(Những muốn) múc trăng trong nước vào bàn tay
Rồi đùa với những đoá hoa hương thấm đẫm áo
Hứng lên thì chẳng ngại gì xa gần
Muốn về lại tiếc hoa thơm cỏ lạ
Xa tút phía nam vẳng tiếng chuông ngân
Lâu đài ẩn sâu giữa núi xanh rờn.

 

Dịch thơ:

 

Núi xuân nhiều cảnh đẹp

Thưởng ngoạn quên về nhà

Muốn vớt trăng đáy nước

Ngửi hương đùa cùng hoa

Gần xa hứng chẳng ngại

Hoa cỏ níu chân ta

Lâu đài trong núi thắm

Vẳng tiếng chuông ngân xa…

 

 

春日偶作

 

溫庭筠

西園一曲艷陽歌,
擾擾車塵負薜蘿。
自欲放懷猶未得,

不知經世竟如何。

夜聞猛雨拌花盡,

寒戀重衾覺夢多。

釣渚別來應更好,

春風還為起微波。

 

Phiên âm:  Xuân nhật ngẫu tác

          Ôn Đình Quân

 

Tây viên nhất khúc diễm dương ca,
Nhiễu nhiễu xa trần phụ bệ la.
Tự dục phóng hoài do vị đắc,
Bất tri kinh thế cánh như hà.
Dạ văn mãnh vũ phan hoa tận,
Hàn luyến trùng khâm giác mộng đa.
Ðiếu chử biệt lai ưng cánh hảo,
Xuân phong hoàn vị khởi vi ba.

 

Dịch nghĩa:

 

       Ngày xuân ngẫu tác,

Vườn mé tây (ai đó) hát khúc ca xuân,
Xe chạy tung bụi mù bám vào bụi cây bệ la
Lòng muốn phóng túng tùy hứng mà chưa được
Không biết rồi cuộc đời này sẽ sao đây
Đêm nghe mưa rào ( biết ) rụng hết cả hoa
Trời lạnh nhớ mền ấm, giấc đẫy chiêm bao
Bến câu, lâu chưa trở lại, giờ chắc còn là nơi tốt đẹp
Gió xuân vi chăng đó mà dợn sóng lăn tăn

 

Dịch thơ:

 

Tây vườn ai hát khúc ca xuân

Xe chạy cành la bụi bám thân

Tùy hứng lòng mong mà chửa được

Suy tư cuộc sống sẽ xoay vần?

Mưa rào vùi dập ngờ hoa rụng

Khí lạnh xui lòng nhớ ấm chăn

Phải bến câu xưa nay vẫn đẹp?

Gió xuân vờn nhẹ sóng lăn tăn...

 

 

逢雪宿芙蓉山

 

劉長卿

 

日暮蒼山遠,  
天寒白屋貧。  
柴門聞犬吠,  

風雪夜歸人。

 

 

 Phiên âm:

 

Phùng tuyết túc Phù Dung sơn,

 

       Lưu Trường Khanh

 

Nhật mộ thương sơn viễn,
Thiên hàn bạch ốc bần.
Sài môn văn khuyển phệ,
Phong tuyết dạ quy nhân.

 

Dịch nghĩa:

 

       Gặp tuyết ngủ trọ ở núi Phù Dung

 

 Mặt trời đã lặn, thấy núi xanh đằng xa,
 Trời thì lạnh, mà nhà chủ lại trống trải, nghèo nàn.
 Nghe tiếng chó sủa bên ngoài cổng,
 Người (chủ nhân) trở về nhà trong bóng đêm đầy gió tuyết.

 

 Dịch thơ:

 

       Núi xa mặt trời lặn

Nhà trống trải nghèo nàn

Nghe chó sủa ngoài cổng

Người về trong tuyết đêm

 

 

 

劉長卿

 

Phiên âm:

 

Tặng Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên

Lưu Trường Khanh

 

 Xuân phong ỷ trạo Hạp Lư thành
Thủy quốc xuân hàn âm phục tình
Tế vũ thấp y khan ( khán ) bất kiến
Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh
Nhật tà giang thượng cô phàm ảnh
Thảo lục hồ nam vạn lý tình
 Đông đạo nhược phùng tương thức vấn
Thanh bào kim dĩ ngộ nho sinh

 

Dịch nghĩa:             

 

Tặng Nghiêm Sĩ Nguyên Khi Từ Biệt

 

Trong gió xuân, nương mái chèo về thành Hạp Lư
Vẻ xuân trên mặt sông lạnh lúc mờ lúc tỏ
Mưa phùn làm ướt áo, nhìn mà chẳng thấy
Hoa từ từ rơi xuống đất, nghe không tiếng động
Nắng chiều xế trên sông với cánh buồm cô độc
Đồng cỏ xanh phía nam hồ gợi mối tình xa muôn dặm
Nếu (ông) có gặp người quen hỏi về (tôi)
(Thì bảo) áo xanh nay đã làm người học trò xưa lầm lỡ rồi,

 

Dịch thơ:

 

Chèo nương theo gió tới Hạp Lư

Vẻ mặt xuân sông tỏ lại mờ

Chẳng thấy mưa phùn làm ướt áo

Không nghe hoa rụng rớt từ từ

Cánh buồm cô độc in nắng xế

Đồng cỏ nam hồ gợi tình xa

Ai hỏi về tôi xin hãy nói

Áo xanh lầm lỡ kẻ học trò...

 

 

 

沈佺期

  
  

  
  
  

 

       Phiên âm:    

TẠP THI

              Thẩm Thuyên Kì

       Văn đạo Hoàng Long thú
       Tần niên bất giải binh
       Khả liên khuê lý nguyệt
       Trường tại Hán gia dinh

       Thiếu phụ kim xuân ý
       Lương nhân tạc dạ tình
       Thùy năng tương kỳ cổ
       Nhất vi thủ Long thành

 

 

Dịch Nghĩa:          

 

THƠ TẠP

 

(Nghe nói) quân đồn trú ở thành Hoàng Long
(Chiến đấu) đã mấy năm rồi mà chưa được trở về
Thương cho vầng trăng sáng nơi khuê phòng
Cũng chiếu mãi trên doanh trại quân Hán
Ý nghĩ của người vợ trẻ xuân này,
Cũng là cái tình của người chồng đêm nọ
Nào biết ai có thể phất cờ gióng trống
Chỉ một trận là hạ được Long thành đây?

 

Dịch thơ:

 

Quân sĩ thành Hoàng Long

Xa nhà mấy năm ròng?

Thương khuê phòng trăng sáng

Chiếu trại Hán mỏi mong

Xuân này ý vợ trẻ

Đêm nọ tình người chồng

Ai phất cờ gióng trống

Một trận hạ thành Long?

 

 

與諸子登峴山

 

 

人事有代謝,  
往來成古今。  

江山留勝跡,

我輩復登臨。

水落魚梁淺,  
天寒夢澤深。  
羊公碑字在,  

讀罷淚沾襟。

  

 Phiên âm: 

DỮ CHƯ TỬ ĐĂNG HIỆN SƠN

                     Mạnh Hạo Nhiên

       Nhân sự hữu đại tạ,
       Vãng lai thành cổ kim (câm)
       Giang sơn lưu thắng tích,
       Ngã bối phục đăng lâm.
       Thủy lạc ngư lương thiển,
       Thiên hàn Mộng trạch thâm.
       Dương công bỉ thượng tại,
       Độc bãi lệ triêm khâm.

 

 Dịch nghĩa:       

 

Cùng bạn hữu lên Hiện Sơn,

 

Mạnh Hạo Nhiên

 

Chuyện đời hưng suy là thường tình
Dĩ vãng tương lai làm nên lịch sử xưa nay
Núi sông kia còn lưu thắng tích
Để nay ta còn được lên mà đây chiêm ngưỡng
Nước xuống thấy ngổn ngang ngư cụ
Trời lạnh đầm Mộng như sâu hơn
Bia đá Dương công còn đấy
Đọc rồi nước mắt ướt đầm vạt áo...

 

Dịch thơ:

 

Chuyện đời thường suy, thịnh

Cổ, lai tạo sử xanh

Giang sơn lưu thắng tích

Cho ta tận mắt nhìn

Nước xuống ngư cụ nổi

Trời lạnh đầm sâu hơn

Bia Dương công còn đó

Vạt áo lệ ướt đầm

 

 

 

絕句 (二首其二)

 

杜甫

江碧鳥逾白,  
山青花欲燃。  
今春看又過,  

何日是歸年?

 

Phiên âm:

 

TUYỆT CÚ (nhị thủ kỳ nhị)

 

                           Đỗ Phủ  

 
       Giang bích điểu du bạch,
       Sơn thanh hoa dục nhiên.
       Kim xuân khan hựu quá,
       Hà nhật thị quy niên?

 

Dịch nghĩa:

 

Sông biếc như ngọc, chim trắng lượn bay
Núi xanh, hoa nở đỏ như lửa cháy
Cảnh xuân tươi này rồi sẽ trôi qua,
(Còn ta) thì bao lâu nữa được trở về?

  

Dịch thơ:

 

Chim trắng bay, sông biếc

Hoa đỏ lửa, núi xanh

Cảnh xuân rồi qua chóng

Mộng về năm nào thành?

 

 

暮春歸故山草堂

 

谷口春殘黃鳥稀,

辛夷花盡杏花飛。

始憐幽竹山窗下,

不改青陰待我歸。

 

Phiên âm:

 

MỘ XUÂN QUY CỐ SƠN THẢO ĐƯỜNG

 

Tiền Khởi

 

Cốc khẩu xuân tàn, hoàng điểu hy,
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi.
Thủy liên u trúc sơn song hạ,
Bất cải thanh âm, đãi ngã quy.

 

Dịch nghĩa:  

Cuối xuân, về nhà tranh ở núi cũ

Trong thung xuân đã qua, oanh vàng thưa thớt
Hoa tân di tàn hết, hoa hạnh rơi bay
Chỉ thương khóm trúc u ẩn bên cửa sổ nhìn ra núi
Chẳng đổi sắc xanh, đứng như đợi ta về.

 .………

 Chú thích:
+ Tân-di là một loại cây thân lớn có hoa.
+ Ý tứ: Các loài hoa đều thay đổi theo mùa, riêng cây trúc là vẫn giữ tiết trung thành, luôn có ý chờ đợi chủ cũ.

 

 Dịch thơ:

 

Xuân qua oanh vàng vắng

Hoa hạnh, tân di tàn

Riêng trúc xanh không đổi

Như ngóng đợi người thân

 

 

讀李白詩集

郑谷

何事文星輿酒星,
一時鍾在李先生?
高吟大醉三千首,
留著人間伴月明。

 

Phiên âm:    

 

ĐỘC LÝ BẠCH THI TẬP

 

Trịnh Cốc


Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh,
Nhất thời chung tại Lý tiên sinh ?
Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,
Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh
.

 

Dịch nghĩa:   

 

Đọc Lý Bạch thi tập

 

Trịnh Cốc

 

Cớ sao, ngôi sao Văn và sao Tửu,
Lại cùng một lúc dồn cả vào ông Lý?
Những khi say khướt (làm) tới ba nghìn bài thơ,
Cái còn lại với cõi đời, là chỉ làm bạn với trăng mà thôi.

 

 Dịch thơ:

 

Hà cớ Văn tinh với Tửu tinh

Lại cùng chung đúc Lý tiên sinh?

Ba nghìn trước tác khi say khướt

Lưu lại nhân gian bạn với trăng

 

 

 楓橋夜泊

 

張繼

月落烏啼霜滿天,

江楓漁火對愁眠。

姑蘇城外寒山寺,

夜半鐘聲到客船。

 

 Phiên âm:

 

PHONG KIỀU DẠ BẠC

 

Trương Kế

 

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

 

Dịch nghĩa:

 

       Đậu thuyền đêm ở bến Phong Kiều

 

Trăng lặn, quạ kêu, sương bao phủ đầy trời.
Hàng phong trên bến, ngọn đèn thuyền chài cùng sầu mơ ngủ,
Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến bến thuyền khách.

 

Dịch thơ:

 

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ trời

Đèn chài, cây bến ngủ mơ hoài

Ngoài thành Tô có Hàn San tự

Nửa đêm văng vẳng tiếng chuông dài.

 

 

 金縷衣

 

杜秋娘

勸君莫惜金縷衣,

勸君惜取少年時。 
花開堪折直須折, 
莫待無花空折枝。

      

Phiên âm:    

 

KIM LŨ Y

 

Đỗ Thu Nương

 

Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.

 

Dịch nghĩa:   

 

Áo kim tuyến

 

Khuyên người đừng tiếc áo thêu vàng,
(Mà) người hãy biết tiếc thời trẻ trung,
Hoa nở đáng bẻ thì hãy bẻ ngay,
Đừng chờ, (kẻo) hoa rụng lại bẻ cành không.

 

  Dịch thơ:

 

Khuyên người đừng tiếc áo thêu vàng

Mà nên biết tiếc thuở trẻ trung

Hoa nở đến thì xin hãy hái

Chớ chờ hoa rụng bẻ cành không.

 

 

古悠悠行    
             
                
李賀        
白景歸西山,  
碧華上迢迢。  
古今何處盡,  
千歲隨風飄。

海沙變成石,  
魚沫吹秦橋。  
空光遠流浪,  
銅柱從年消。  

Phiên âm:     Cổ du du hành

                           Lý Hạ


       Bạch cảnh quy Tây sơn,
       Bích hoa thượng thiều thiều.
       Cổ kim hà xứ tận,
       Thiên tuế tuỳ phong phiêu.
       Hải sa biến thành thạch,
       Ngư mạt hấp Tần kiều.
       Không quang viễn lưu lãng,
       Đồng trụ tòng niên tiêu.

Dịch nghĩa:

 

Bài hành Thiên cổ mang mang,

 

Mặt trời đã lặn về núi Tây
Bầu trời đêm thì quá mênh mông
Đâu là cùng tận của xưa và nay đây?
Ngàn năm bay theo cánh gió
Cát biển thì đã hóa đá
Cá đang đớp bọt ở dưới cầu Tần,
Thời gian trôi đi thật chóng vánh
Trụ đồng rồi tiêu tan dần theo tháng năm.

 

Dịch thơ:

 

Núi Tây mặt trời lặn

Trời đêm quá mênh mông

Xưa nay đâu cùng tận?

Ngàn năm theo gió tung

Hóa đá rồi cát biển

Cá đớp dưới cầu Tần

Thời gian trôi chóng vánh

Tháng năm tan trụ đồng

 

 

自遣

 

李白

對酒不覺瞑,  

落花盈我衣。

醉起步溪月,  

鳥還人亦稀。


       Phiên âm:           

 

Tự khiển

  

                           Lý Bạch


       Đối tửu bất giác minh,
       Lạc hoa doanh ngã y.
       Tuý khởi bộ khê nguyệt,
       Điểu hoàn nhân diệc hy.

 

Dịch nghĩa:        

 

Giải khuây

 

Say rượu một mình, ngủ vùi, chẳng rõ sớm tối,
(Đến nỗi) hoa rụng đầy mình, y như mặc áo hoa.
Khi tỉnh dậy, tản bộ theo vệt trăng loang bên suối,
Chỉ thấy chim về tổ, người chẳng thấy ai.

 

Dịch thơ:

 

I

 

Say ngủ mặc đất trời

Áo ta hoa rụng đầy

Tỉnh theo trăng tản bộ

Chim về tổ, không người

 

II

 

Rượu say sớm tối biết chi

Đầy mình hoa rụng khác gì áo hoa

Lần theo trăng suối gần xa

Kìa chim về tổ, người đà vắng tanh.

 

 

行宮

 

元稹

寥落古行宮,  
宮花寂寞紅。  
白頭宮女在,  

閒坐說玄宗。

      

Phiên âm:           

 

Hành cung

 

              Nguyên Chẩn


       Liêu lạc cổ hành cung,
       Cung hoa tịch mịch hồng.
       Bạch đầu cung nữ tại,
       Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.

 

Dịch nghĩa:

 

Hành cung cũ thật hoang tàn
Hoa nở hông trong nỗi hiu quạnh
Có một cung nữ đầu bạc
Ngồi rồi lẩn thẩn chuyện Huyền Tông.

 

Dịch thơ:

 

Hành cung cũ tan hoang

Hiu quạnh hoa nở hồng

Có cung nữ đầu bạc

Lẩn thẩn chuyện Huyền Tông

 

 

 華清宮 (其一)

 

崔櫓

 

草遮回磴絕鳴鑾

雲樹深深碧殿寒。

明月自來還自去,

更無人倚玉欗干。

Phiên âm:

 

 Hoa Thanh cung (Kỳ nhất)

 

Thôi Lỗ    

Thảo già hồi đắng tuyệt minh loan,
Vân thụ sâm sâm bích điện hàn.
Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ,
Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can.

 

Dịch nghĩa:   

 

CUNG HOA THANH (Kỳ 1)

 

Cỏ leo che bậc đá, bặt tiếng chuông,
Mây cùng cây cối khỏa lấp bích điện lạnh lẽo.
Ánh trăng tự mình lặng sáng rồi lặng tắt,
Chẳng còn thấy người tựa lan can ngọc nữa.

 

Dịch thơ:

 

Cỏ trùm bậc đá, bặt chuông ngân

Cây phủ mây che điện lạnh tàn

Lặng lẽ trăng lên rồi tự lặn

Đâu rồi người đứng tựa lan can

 

 

過野叟居

 

馬戴

野人閒種樹,  
樹老野人前。  

居止白雲內,

漁樵滄海邊。  
呼兒采山藥,  
放犢飲溪泉。  
自著養生論,  

無煩懮暮年。

 

       Phiên âm:     Quá dã tẩu cư

                                      Mã Đái

       Dã nhân nhàn chủng thụ,
       Thụ lão dã nhân tiền.
       Cư chỉ bạch vân nội,
       Ngư tiều thương hải biên.
       Hô nhi thái sơn dược,
       Phóng độc ẩm khê tuyền.
       Tự trước dưỡng sinh luận,
       Vô phiền ưu mộ niên.

 

Dịch nghĩa:

 

Qua thăm nhà lão quê

 

Người quê nhàn rỗi thì trồng cây lưu niên
Giờ cây cũng đã già cùng người quê rồi
Ngay nơi ở có mây trắng bay
Ngư phủ, tiều phu về bên biển
Bảo con đi hái thuốc trong núi
Chăn thả trâu nơi khe suối
Tự mình làm ra thuật dưỡng sinh
Chẳng bận ưu phiền lúc tuổi già đến,

 

 Dịch thơ:

 

Lưu niên nhàn rỗi thì trồng

Giờ cây cũng đã già cùng người quê

Nơi nhà mây trắng bay về

Ngư tiều bên biển đề huề nghỉ ngơi

Sai con hái thuốc trên đồi

Thả trâu khe suối lần hồi tháng năm   

Tự mình làm thuật dưỡng sinh

Tuổi già khi đến ưu phiền chẳng lo.

 

 

復愁 (其三)

 

杜甫

萬國尚戎馬,  
故園今若何。  
昔歸相識少,  
早已戰場多。

 

       Phiên âm:

 

Phục sầu (kỳ tam)

 

                     Đỗ Phủ


       Vạn quốc thượng nhung mã,
       Cố viên kim nhược hà.
       Tích quy tương thức thiểu,
       Tảo dĩ chiến trường đa.

 

Dịch nghĩa:

 

Lại buồn (Kỳ 3)

 

Khi khắp nơi vẫn còn lo việc quân
Thì vườn cũ (của ta) ra sao rồi ?
Ngày trước về quê, bạn hữu vốn thưa thớt
Huống hồ nay vẫn lắm cảnh chiến trường

  

Dịch thơ:

 

Khắp nơi việc quân bận

Vườn nhà ta sao rồi?

Bạn bè vốn thưa thớt

Chiến tranh còn mấy ai.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét