送友人
李白
青山橫北郭,
白水遶東城。
此地一為別,
孤蓬萬里征。
浮雲遊子意,
落日故人情。
揮手自茲去,
蕭蕭班馬鳴。
Phiên âm: TỐNG
HỮU NHÂN
Lý Bạch
Thanh sơn hoành bắc quách,
Bạch
thủy nhiễu đông thành.
Thử
địa nhất vi biệt,
Cô
bồng vạn lý chinh.
Phù
vân du tử ý,
Lạc
nhật cố nhân tình.
Huy
thủ tự tư khứ,
Tiêu
tiêu ban mã minh.
Dịch nghĩa:
TIỄN BẠN
Non xanh chắn ngang vòng thành ngoài phía bắc,
Nước bạc lượn quanh trong khu thành phía
đông.
Nơi đây, một khi, đã chia tay nhau rồi,
Thì khác gì cỏ bồng lẻ loi trôi biệt vạn
lý.
Lòng dạ khách đi buồn như áng mây nổi,
Tình bạn cũ với nhau sầu như bóng chiều
tà.
Vẫy tay tiễn, thôi từ nay bạn lên đường,
Ngựa xa bầy cất tiếng rền rĩ nghe càng thêm xót lòng.
Dịch thơ:
Non xanh bao phía bắc
Nước bạc lượn đằng đông
Nơi đây khi tiễn biệt
Lẻ loi tựa cỏ bồng
Dạ khách buồn mây nổi
Tình bạn sầu chiều buông
Vẫy tay nay tiễn biệt
Tiếng ngựa xa xót lòng.
薄暮
杜甫
江水長流地,
山雲薄暮時。
寒花隱亂草,
宿鳥擇深枝。
舊國見何日,
高秋心苦悲。
人生不再好,
鬢發白成絲。
Phiên âm: BẠC MỘ
Đỗ Phủ
Giang
thuỷ trường lưu địa,
Sơn
vân bạc mộ thì.
Hàn
hoa ẩn loạn thảo,
Túc
điểu trạch lâm chi.
Cựu
quốc kiến hà nhật?
Cao
thu tâm khổ bi!
Nhân
sinh bất tái hảo,
Mấn
phát tự thành ti.
Dịch nghĩa:
CHIỀU HÔM
Nơi này nước sông chảy
hoài
Lúc chiều hôm nhuộm màu mây núi
Hoa lạnh lẽo nấp trong đám cỏ rối
Chim ngủ đêm chọn nơi cây cành rậm rạp
Ngày nào thấy lại đất nước cũ đây ?
Trời thu lồng lộng khiến lòng người buồn thêm !
(Ngẫm ) đời người ta không dễ được nhiều may mắn,
(Vậy mà) mấy chốc, tóc đà bạc trắng như tơ !
Dịch thơ:
Đất này sông chảy mãi
Ráng
chiều nhuộm núi mây
Hoa
lạnh trong cỏ rối
Cành
rậm chim ngủ say
Nước
cũ khi nào thấy?
Thu
lộng lòng buồn thay
Đời
người dễ may mắn?
Chốc
đà bạc tóc mây
賦得古原草送別
(草)
白居易
离离原上草,
一歲一枯榮。
野火燒不盡,
春風吹又生。
遠芳侵古道,
晴翠接荒城。
又送王孫去,
萋萋滿別情。
Phiên âm:
PHÚ ĐẮC CỔ NGUYÊN THẢO TỐNG
BIỆT
(Thảo)
Bạch Cư Dị
Ly ly nguyên thượng thảo,
Nhất tuế nhất khô vinh.
Dã hỏa thiêu bất tận,
Xuân phong xuy hựu sinh.
Viễn phương xâm cổ đạo,
Tình thúy tiếp hoang thành.
Hựu tống vương tôn khứ,
Thê thê mãn biệt tình.
Dịch nghĩa:
Phú đắc: cỏ trên cao nguyên xưa đưa tiễn
Cỏ mọc trên đồng tốt bời,
Hằng năm một lần tươi rồi lần úa
Lửa đốt đồng thiêu thế nào cũng không cháy hết
Khi gió xuân về lại nảy nở sinh sôi
Mùi cỏ thơm lan xa tận lối cũ
Sắc xanh tươi kế đến thành hoang
Giờ đưa vương tôn đi xa
(Cỏ) chứa chan bời bời nỗi ly biệt ...
Dịch thơ:
Bời
bời đồng cỏ tốt
Tươi,
úa năm một lần
Lửa
thiêu chẳng cháy hết
Xuân
về lại hồi sinh
Cỏ
thơm lan lối cũ
Thành
hoang sắc tươi xanh
Lại
tiễn vương tôn nữa
Ly
biệt lòng chứa chan
見渭水思秦川
岑參
渭水東流去,
何時到雍州.
憑添兩行淚,
寄向故園流.
Phiên âm:
Kiến Vị Thủy tư Tần Xuyên
Sầm Than
Vị thuỷ đông lưu khứ,
Hà
thời đáo Ung Châu.
Bằng
thiêm lưỡng hàng lệ,
Ký hướng cố viên lưu.
Dịch nghĩa:
THẤY SÔNG VỊ NHỚ ĐẤT
TẦN
Thấy
sông Vị Thủy nhớ đất Tần Xuyên
Sông
Vị xuôi dòng về hướng đông..
Đến
khi nào chảy qua Ung châu,
Nhờ
mang giúp đôi dòng lệ
Về
quê cũ nỗi niềm (của ta)
_______
Chú thích:
Sông
Vị thuỷ, khởi nguồn từ huyện Lũng tây (Cam Túc ), chảy hướng đông nam vào tỉnh
Thiểm Tây, chuyển hướng đông để nhập sông Hoàng Hà. Tần Xuyên, chỉ vùng đất thuộc
nước Tần cũ. Ung Châu, tên châu đời Đường, nay thuộc Tây An, tỉnh Thiểm Tây.
Dịch thơ:
Sông
Vỵ chảy hướng đông
Khi
nào qua châu Ung
Chuyển
giúp đôi dòng lệ
Nỗi
niềm về cố hương
春題湖上
白居易
湖上春來似畫圖,
亂峰圍繞水準鋪。
松排山面千重翠,
月點波心一顆珠。
碧毯線頭抽早稻,
青羅裙帶展新蒲。
未能拋得杭州去,
一半勾留是此湖。
Phiên
âm:
Xuân đề hồ thượng
Bạch
Cư Dị
Hồ thượng xuân lai tự họa đồ,
Loạn phong vi nhiễu thủy bình
phô.
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy,
Nguyệt điểm ba tâm nhất khỏa châu.
Bích thảm tuyết đầu trừu tảo đạo,
Thanh la quần đái triển tân bồ.
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ,
Nhất bán câu lưu thị thử hồ.
Dịch nghĩa:
Mùa xuân đề thơ trên hồ
Xuân về, cảnh hồ như một bức
tranh
Núi lô nhô bao quanh mặt nước phẳng lặng
Ngàn thông trên núi trập trùng xanh ngắt
Ánh trăng rọi sóng nước như muôn hạt ngọc châu
Lúa sớm trổ bông trải như tấm thảm biếc
Cỏ bồ mới nảy tựa như dải quần lụa xanh
(Ta) chưa thể bỏ Hàng Châu đi ngay được
Phân nửa vì bịn rịn cảnh hồ này.
Dịch thơ:
Xuân về hồ nước đẹp bức tranh
Phẳng lặng mặt gương núi uốn
quanh
Trên núi ngàn thông màu xanh
ngắt
Dưới hồ sóng ngọc ánh trăng
thanh
Đơm bông lúa sớm như thảm biếc
Nảy lộc cỏ bồ tựa lụa xanh
Chẳng bỏ Hàng Châu đi sớm được
Phần vì bịn rịn cảnh xuân
tình
春日獨酌
(其一)
李白
東風扇淑氣,
水木榮春暉。
白日照綠草,
落花散且飛。
孤云還空山,
眾鳥各已歸。
彼物皆有托,
吾生獨無依。
對此石上月,
長醉歌芳菲。
Phiên
âm:
Xuân nhật độc chước (kỳ nhất)
Lý
Bạch
Đông phong phiến thục khí,
Thủy
mộc vinh xuân huy.
Bạch
nhật chiếu lục thảo,
Lạc
hoa tán thả phi.
Cô
vân hoàn không sơn,
Chúng
điểu các dĩ quy.
Bỉ
vật giai hữu thác,
Ngô
sinh độc vô y.
Đối
thử thạch thượng nguyệt
Trường
túy ca phương phi.
Dịch nghĩa:
Ngày xuân uống rượu một mình (Kỳ 1)
Gió xuân thổi khí trời
huyên hòa
Nước, cỏ cây tươi thắm giữa tiết xuân
Ánh dương tỏa chiếu cỏ xanh
Hoa rụng cánh tung bay khắp nơi
Vầng mây lẻ bay về núi vắng
Đám chim đều bay về tổ
Mọi vật đều có nơi nương tựa
Ta đây sinh ra biết nương tựa vào ai
Kìa ánh trăng sáng soi ghềnh đá,
Say khướt (ta) ca lên bài phương phi
Dịch thơ:
Gió xuân huyên hòa khí
Cây, nước thắm tiết xuân
Cỏ xanh vàng ánh nắng
Hoa rụng tung khắp miền
Đàn chim bay về tổ
Vầng mây hướng tới non
Mọi vật có nơi tựa
Riêng ta vẫn một mình
Kìa trăng soi ghềnh đá
Say khướt ta ca xuân
春山夜月
于良史
春山多勝事,
賞翫夜忘歸。
掬水月在手,
弄花香滿衣。
興來無遠近,
欲去惜芳菲。
南望鳴鐘處,
樓臺深翠微。
Phiên âm:
XUÂN SƠN NGUYỆT DẠ
Vu
Lương Sử
Xuân sơn đa thắng sự,
Thưởng ngoạn dạ vong quy.
Cúc thủy nguyệt tại thủ,
Lộng hoa hương mãn y.
Hứng lai vô viễn cận,
Dục khứ tích phương phi.
Nam vọng minh chung xứ,
Lâu đài thâm thuý vi.
Dịch nghĩa:
Đêm trăng trên núi mùa xuân
Núi mùa xuân nhiều cảnh đẹp
Thưởng ngoạn đêm buông rồi mà
quên về nhà
(Những muốn) múc trăng trong nước vào bàn tay
Rồi đùa với những đoá hoa hương thấm đẫm áo
Hứng lên thì chẳng ngại gì xa gần
Muốn về lại tiếc hoa thơm cỏ lạ
Xa tút phía nam vẳng tiếng chuông ngân
Lâu đài ẩn sâu giữa núi xanh rờn.
Dịch thơ:
Núi xuân nhiều cảnh đẹp
Thưởng ngoạn quên về nhà
Muốn vớt trăng đáy nước
Ngửi hương đùa cùng hoa
Gần xa hứng chẳng ngại
Hoa cỏ níu chân ta
Lâu đài trong núi thắm
Vẳng tiếng chuông ngân xa…
春日偶作
溫庭筠
西園一曲艷陽歌,
擾擾車塵負薜蘿。
自欲放懷猶未得,
不知經世竟如何。
夜聞猛雨拌花盡,
寒戀重衾覺夢多。
釣渚別來應更好,
春風還為起微波。
Phiên âm: Xuân nhật ngẫu tác
Tây viên nhất khúc diễm dương
ca,
Nhiễu nhiễu xa trần phụ bệ la.
Tự dục phóng hoài do vị đắc,
Bất tri kinh thế cánh như hà.
Dạ văn mãnh vũ phan hoa tận,
Hàn luyến trùng khâm giác mộng đa.
Ðiếu chử biệt lai ưng cánh hảo,
Xuân phong hoàn vị khởi vi ba.
Dịch nghĩa:
Ngày xuân ngẫu tác,
Vườn mé tây (ai đó) hát khúc ca xuân,
Xe chạy tung bụi mù bám vào bụi cây bệ la
Lòng muốn phóng túng tùy hứng mà chưa được
Không biết rồi cuộc đời này sẽ sao đây
Đêm nghe mưa rào ( biết ) rụng hết cả hoa
Trời lạnh nhớ mền ấm, giấc đẫy chiêm bao
Bến câu, lâu chưa trở lại, giờ chắc còn là nơi tốt đẹp
Gió xuân vi chăng đó mà dợn sóng lăn tăn
Dịch thơ:
Tây vườn ai hát khúc ca xuân
Xe chạy cành la bụi bám thân
Tùy hứng lòng mong mà chửa được
Suy tư cuộc sống sẽ xoay vần?
Mưa rào vùi dập ngờ hoa rụng
Khí lạnh xui lòng nhớ ấm chăn
Phải bến câu xưa nay vẫn đẹp?
Gió xuân vờn nhẹ sóng lăn
tăn...
逢雪宿芙蓉山
劉長卿
日暮蒼山遠,
天寒白屋貧。
柴門聞犬吠,
風雪夜歸人。
Phiên âm:
Phùng tuyết túc Phù
Dung sơn,
Lưu Trường Khanh
Nhật mộ thương sơn viễn,
Thiên hàn bạch ốc bần.
Sài môn văn khuyển phệ,
Phong tuyết dạ quy nhân.
Dịch nghĩa:
Gặp
tuyết ngủ trọ ở núi Phù Dung
Mặt trời đã lặn, thấy núi xanh đằng xa,
Trời thì lạnh, mà nhà chủ lại trống trải,
nghèo nàn.
Nghe tiếng chó sủa bên ngoài cổng,
Người (chủ nhân) trở về nhà trong bóng
đêm đầy gió tuyết.
Dịch thơ:
Núi
xa mặt trời lặn
Nhà
trống trải nghèo nàn
Nghe
chó sủa ngoài cổng
Người
về trong tuyết đêm
贈 別 嚴 士 元
劉長卿
春 風 倚 棹 闔 閭 城
水 國 春 寒 陰 復 晴
細 雨 濕 衣 看 不 見
閒 花 落 地 聽 無 聲
日 斜 江 上 孤 帆 影
草 綠 湖 南 萬 里 情
東 道 若 逢 相 識 問
青 袍 今 已 誤 儒 生
Phiên âm:
Tặng Biệt Nghiêm Sĩ
Nguyên
Lưu Trường Khanh
Xuân phong ỷ trạo Hạp Lư thành
Thủy quốc xuân hàn âm phục tình
Tế vũ thấp y khan ( khán ) bất kiến
Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh
Nhật tà giang thượng cô phàm ảnh
Thảo lục hồ nam vạn lý tình
Đông
đạo nhược phùng tương thức vấn
Thanh bào kim dĩ ngộ nho sinh
Dịch nghĩa:
Tặng Nghiêm Sĩ Nguyên Khi Từ Biệt
Trong gió xuân, nương mái
chèo về thành Hạp Lư
Vẻ xuân trên mặt sông lạnh lúc mờ lúc tỏ
Mưa phùn làm ướt áo, nhìn mà chẳng thấy
Hoa từ từ rơi xuống đất, nghe không tiếng động
Nắng chiều xế trên sông với cánh buồm cô độc
Đồng cỏ xanh phía nam hồ gợi mối tình xa muôn dặm
Nếu (ông) có gặp người quen hỏi về (tôi)
(Thì bảo) áo xanh nay đã làm người học trò xưa lầm lỡ rồi,
Dịch thơ:
Chèo
nương theo gió tới Hạp Lư
Vẻ
mặt xuân sông tỏ lại mờ
Chẳng
thấy mưa phùn làm ướt áo
Không
nghe hoa rụng rớt từ từ
Cánh
buồm cô độc in nắng xế
Đồng
cỏ nam hồ gợi tình xa
Ai
hỏi về tôi xin hãy nói
Áo
xanh lầm lỡ kẻ học trò...
雜 詩
沈佺期
聞 道 黃 龍 戍
頻 年 不 解 兵
可 憐 閨 裏 月
長 在 漢 家 營
少 婦 今 春 意
良 人 昨 夜 情
誰 能 將 旗 鼓
一 為 取 龍 城
Phiên
âm:
TẠP THI
Thẩm
Thuyên Kì
Văn đạo Hoàng Long thú
Tần niên bất giải binh
Khả liên khuê lý nguyệt
Trường tại Hán gia dinh
Thiếu phụ kim xuân ý
Lương nhân tạc dạ tình
Thùy năng tương kỳ cổ
Nhất vi thủ Long thành
Dịch Nghĩa:
THƠ TẠP
(Nghe nói) quân đồn trú ở
thành Hoàng Long
(Chiến đấu) đã mấy năm rồi mà chưa được trở về
Thương cho vầng trăng sáng nơi khuê phòng
Cũng chiếu mãi trên doanh trại quân Hán
Ý nghĩ của người vợ trẻ xuân này,
Cũng là cái tình của người chồng đêm nọ
Nào biết ai có thể phất cờ gióng trống
Chỉ một trận là hạ được Long thành đây?
Dịch thơ:
Quân
sĩ thành Hoàng Long
Xa
nhà mấy năm ròng?
Thương
khuê phòng trăng sáng
Chiếu
trại Hán mỏi mong
Xuân
này ý vợ trẻ
Đêm
nọ tình người chồng
Ai
phất cờ gióng trống
Một
trận hạ thành Long?
與諸子登峴山
孟 浩 然
人事有代謝,
往來成古今。
江山留勝跡,
我輩復登臨。
水落魚梁淺,
天寒夢澤深。
羊公碑字在,
讀罷淚沾襟。
Phiên âm:
DỮ CHƯ TỬ ĐĂNG HIỆN SƠN
Mạnh Hạo Nhiên
Nhân sự hữu đại tạ,
Vãng lai thành cổ kim (câm)
Giang sơn lưu thắng tích,
Ngã bối phục đăng lâm.
Thủy lạc ngư lương thiển,
Thiên hàn Mộng trạch thâm.
Dương công bỉ thượng tại,
Độc bãi lệ triêm khâm.
Dịch nghĩa:
Cùng bạn hữu lên Hiện Sơn,
Mạnh Hạo Nhiên
Chuyện đời hưng suy là thường
tình
Dĩ vãng tương lai làm nên lịch sử xưa nay
Núi sông kia còn lưu thắng tích
Để nay ta còn được lên mà đây chiêm ngưỡng
Nước xuống thấy ngổn ngang ngư cụ
Trời lạnh đầm Mộng như sâu hơn
Bia đá Dương công còn đấy
Đọc rồi nước mắt ướt đầm vạt áo...
Dịch thơ:
Chuyện
đời thường suy, thịnh
Cổ,
lai tạo sử xanh
Giang
sơn lưu thắng tích
Cho
ta tận mắt nhìn
Nước
xuống ngư cụ nổi
Trời
lạnh đầm sâu hơn
Bia
Dương công còn đó
Vạt
áo lệ ướt đầm
絕句 (二首其二)
杜甫
江碧鳥逾白,
山青花欲燃。
今春看又過,
何日是歸年?
Phiên âm:
TUYỆT CÚ (nhị thủ kỳ nhị)
Đỗ
Phủ
Giang bích điểu du bạch,
Sơn thanh hoa dục nhiên.
Kim xuân khan hựu quá,
Hà nhật thị quy niên?
Dịch nghĩa:
Sông biếc như ngọc, chim trắng
lượn bay
Núi xanh, hoa nở đỏ như lửa cháy
Cảnh xuân tươi này rồi sẽ trôi qua,
(Còn ta) thì bao lâu nữa được trở về?
Dịch thơ:
Chim
trắng bay, sông biếc
Hoa
đỏ lửa, núi xanh
Cảnh
xuân rồi qua chóng
Mộng
về năm nào thành?
暮春歸故山草堂
錢 起
谷口春殘黃鳥稀,
辛夷花盡杏花飛。
始憐幽竹山窗下,
不改青陰待我歸。
Phiên âm:
MỘ XUÂN QUY CỐ SƠN THẢO
ĐƯỜNG
Tiền Khởi
Cốc khẩu xuân tàn, hoàng
điểu hy,
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi.
Thủy liên u trúc sơn song hạ,
Bất cải thanh âm, đãi ngã quy.
Dịch nghĩa:
Cuối xuân, về nhà tranh ở núi cũ
Trong thung xuân đã qua, oanh
vàng thưa thớt
Hoa tân di tàn hết, hoa hạnh rơi bay
Chỉ thương khóm trúc u ẩn bên cửa sổ nhìn ra núi
Chẳng đổi sắc xanh, đứng như đợi ta về.
.………
Chú thích:
+ Tân-di là một loại cây thân lớn có hoa.
+ Ý tứ: Các loài hoa đều thay đổi theo mùa, riêng cây trúc là vẫn giữ tiết
trung thành, luôn có ý chờ đợi chủ cũ.
Dịch thơ:
Xuân
qua oanh vàng vắng
Hoa
hạnh, tân di tàn
Riêng
trúc xanh không đổi
Như
ngóng đợi người thân
讀李白詩集
郑谷
何事文星輿酒星,
一時鍾在李先生?
高吟大醉三千首,
留著人間伴月明。
Phiên âm:
ĐỘC LÝ BẠCH THI TẬP
Trịnh Cốc
Hà sự Văn tinh dữ Tửu tinh,
Nhất thời chung tại Lý tiên sinh ?
Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,
Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.
Dịch nghĩa:
Đọc Lý Bạch thi tập
Trịnh Cốc
Cớ sao, ngôi sao Văn và sao Tửu,
Lại cùng một lúc dồn cả vào ông Lý?
Những khi say khướt (làm) tới ba nghìn bài thơ,
Cái còn lại với cõi đời, là chỉ làm bạn với trăng mà thôi.
Dịch thơ:
Hà
cớ Văn tinh với Tửu tinh
Lại
cùng chung đúc Lý tiên sinh?
Ba
nghìn trước tác khi say khướt
Lưu
lại nhân gian bạn với trăng
楓橋夜泊
張繼
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。
Phiên âm:
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Trương Kế
Nguyệt lạc ô đề sương mãn
thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa:
Đậu
thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng lặn, quạ kêu, sương bao
phủ đầy trời.
Hàng phong trên bến, ngọn đèn thuyền chài cùng sầu mơ ngủ,
Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến bến thuyền khách.
Dịch thơ:
Trăng
lặn, quạ kêu, sương phủ trời
Đèn
chài, cây bến ngủ mơ hoài
Ngoài
thành Tô có Hàn San tự
Nửa
đêm văng vẳng tiếng chuông dài.
金縷衣
杜秋娘
勸君莫惜金縷衣,
勸君惜取少年時。
花開堪折直須折,
莫待無花空折枝。
Phiên âm:
KIM LŨ Y
Đỗ Thu Nương
Khuyến quân mạc tích kim lũ
y,
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.
Dịch nghĩa:
Áo kim tuyến
Khuyên người đừng tiếc áo thêu
vàng,
(Mà) người hãy biết tiếc thời trẻ trung,
Hoa nở đáng bẻ thì hãy bẻ ngay,
Đừng chờ, (kẻo) hoa rụng lại bẻ cành không.
Dịch thơ:
Khuyên
người đừng tiếc áo thêu vàng
Mà
nên biết tiếc thuở trẻ trung
Hoa
nở đến thì xin hãy hái
Chớ
chờ hoa rụng bẻ cành không.
古悠悠行
李賀
白景歸西山,
碧華上迢迢。
古今何處盡,
千歲隨風飄。
海沙變成石,
魚沫吹秦橋。
空光遠流浪,
銅柱從年消。
Phiên âm: Cổ du du hành
Lý Hạ
Bạch cảnh quy Tây sơn,
Bích hoa thượng thiều thiều.
Cổ kim hà xứ tận,
Thiên tuế tuỳ phong phiêu.
Hải sa biến thành thạch,
Ngư mạt hấp Tần kiều.
Không quang viễn lưu lãng,
Đồng trụ tòng niên tiêu.
Dịch nghĩa:
Bài hành Thiên cổ mang
mang,
Mặt trời đã lặn về núi Tây
Bầu trời đêm thì quá mênh mông
Đâu là cùng tận của xưa và nay đây?
Ngàn năm bay theo cánh gió
Cát biển thì đã hóa đá
Cá đang đớp bọt ở dưới cầu Tần,
Thời gian trôi đi thật chóng vánh
Trụ đồng rồi tiêu tan dần theo tháng năm.
Dịch
thơ:
Núi
Tây mặt trời lặn
Trời
đêm quá mênh mông
Xưa
nay đâu cùng tận?
Ngàn
năm theo gió tung
Hóa
đá rồi cát biển
Cá
đớp dưới cầu Tần
Thời
gian trôi chóng vánh
Tháng
năm tan trụ đồng
自遣
李白
對酒不覺瞑,
落花盈我衣。
醉起步溪月,
鳥還人亦稀。
Phiên
âm:
Tự khiển
Lý
Bạch
Đối tửu bất giác minh,
Lạc hoa doanh ngã y.
Tuý khởi bộ khê nguyệt,
Điểu hoàn nhân diệc hy.
Dịch nghĩa:
Giải khuây
Say rượu một mình, ngủ vùi,
chẳng rõ sớm tối,
(Đến nỗi) hoa rụng đầy mình, y như mặc áo hoa.
Khi tỉnh dậy, tản bộ theo vệt trăng loang bên suối,
Chỉ thấy chim về tổ, người chẳng thấy ai.
Dịch thơ:
I
Say
ngủ mặc đất trời
Áo
ta hoa rụng đầy
Tỉnh
theo trăng tản bộ
Chim
về tổ, không người
II
Rượu say sớm tối biết chi
Đầy
mình hoa rụng khác gì áo hoa
Lần theo trăng suối gần xa
Kìa
chim về tổ, người đà vắng tanh.
行宮
元稹
寥落古行宮,
宮花寂寞紅。
白頭宮女在,
閒坐說玄宗。
Phiên âm:
Hành cung
Nguyên Chẩn
Liêu lạc cổ hành cung,
Cung hoa tịch mịch hồng.
Bạch đầu cung nữ tại,
Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.
Dịch nghĩa:
Hành cung cũ thật hoang tàn
Hoa nở hông trong nỗi hiu quạnh
Có một cung nữ đầu bạc
Ngồi rồi lẩn thẩn chuyện Huyền Tông.
Dịch thơ:
Hành
cung cũ tan hoang
Hiu
quạnh hoa nở hồng
Có
cung nữ đầu bạc
Lẩn
thẩn chuyện Huyền Tông
華清宮 (其一)
崔櫓
草遮回磴絕鳴鑾
雲樹深深碧殿寒。
明月自來還自去,
更無人倚玉欗干。
Phiên âm:
Hoa Thanh cung
(Kỳ nhất)
Thôi Lỗ
Thảo già hồi đắng tuyệt
minh loan,
Vân thụ sâm sâm bích điện hàn.
Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ,
Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can.
Dịch nghĩa:
CUNG HOA THANH (Kỳ 1)
Cỏ leo che bậc đá, bặt tiếng
chuông,
Mây cùng cây cối khỏa lấp bích điện lạnh lẽo.
Ánh trăng tự mình lặng sáng rồi lặng tắt,
Chẳng còn thấy người tựa lan can ngọc nữa.
Dịch thơ:
Cỏ
trùm bậc đá, bặt chuông ngân
Cây
phủ mây che điện lạnh tàn
Lặng
lẽ trăng lên rồi tự lặn
Đâu
rồi người đứng tựa lan can
過野叟居
馬戴
野人閒種樹,
樹老野人前。
居止白雲內,
漁樵滄海邊。
呼兒采山藥,
放犢飲溪泉。
自著養生論,
無煩懮暮年。
Phiên âm: Quá
dã tẩu cư
Mã Đái
Dã nhân nhàn chủng thụ,
Thụ lão dã nhân tiền.
Cư chỉ bạch vân nội,
Ngư tiều thương hải biên.
Hô nhi thái sơn dược,
Phóng độc ẩm khê tuyền.
Tự trước dưỡng sinh luận,
Vô phiền ưu mộ niên.
Dịch nghĩa:
Qua thăm nhà lão quê
Người quê nhàn rỗi thì trồng
cây lưu niên
Giờ cây cũng đã già cùng người quê rồi
Ngay nơi ở có mây trắng bay
Ngư phủ, tiều phu về bên biển
Bảo con đi hái thuốc trong núi
Chăn thả trâu nơi khe suối
Tự mình làm ra thuật dưỡng sinh
Chẳng bận ưu phiền lúc tuổi già đến,
Dịch thơ:
Lưu niên nhàn rỗi thì trồng
Giờ cây cũng đã già cùng người quê
Nơi nhà mây trắng bay về
Ngư
tiều bên biển đề huề nghỉ ngơi
Sai con hái thuốc trên đồi
Thả
trâu khe suối lần hồi tháng năm
Tự mình làm thuật dưỡng sinh
Tuổi
già khi đến ưu phiền chẳng lo.
復愁 (其三)
杜甫
萬國尚戎馬,
故園今若何。
昔歸相識少,
早已戰場多。
Phiên
âm:
Phục sầu (kỳ tam)
Đỗ
Phủ
Vạn
quốc thượng nhung mã,
Cố
viên kim nhược hà.
Tích
quy tương thức thiểu,
Tảo
dĩ chiến trường đa.
Dịch nghĩa:
Lại buồn (Kỳ 3)
Khi khắp nơi vẫn còn lo việc
quân
Thì vườn cũ (của ta) ra sao rồi ?
Ngày trước về quê, bạn hữu vốn thưa thớt
Huống hồ nay vẫn lắm cảnh chiến trường
Dịch thơ:
Khắp
nơi việc quân bận
Vườn
nhà ta sao rồi?
Bạn
bè vốn thưa thớt
Chiến
tranh còn mấy ai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét