TS Nguyễn Ngọc Kiên |
TS.Nguyễn Ngọc Kiên
(7)
Một đi không trở lại
Một
đi không trở lại (一去不復返) [nhất
khứ bất phục phản] là thành ngữ nói lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy
lại được và nó có xuất xứ từ bài Hoàng Hạc lâu (黃鶴樓) bất hủ của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường. Nguyên tác:
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người
xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này.
Hạc vàng một đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc, hàng cây đất
Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi. Lúc trời
chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi : Quê hương ở chốn nào ? Khói sóng mịt mờ
trên sông nước Khiến cho người nổi mối ưu sầu.
Dịch thơ:
Người
xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
Nếu
ta hiểu được bài thơ trên thì ta thấy thành ngữ “Một đi không trở lại” không
đơn thuần chỉ nói lên sự lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được
mà nó còn nói lên tâm trạng cảm hoài trước quy luật của tạo vật là không có gì
tồn tại vĩnh cửu.
Trong
tiếng Việt, thành ngữ “một đi không trở lại” được sử dụng rộng rãi hơn,
đôi khi nó được dùng trong các “tít” báo theo cả nghĩa đen. Chỉ cần bấm vào google.com trong vòng 0,17 giây cho
ra 710. 000 kết quả; chẳng hạn “Tại sao du khách nước ngoài đến Việt Nam một
đi không trở lại”, nói về sự làm ăn chộp giật của ngành du lịch nước ta.
(8) Thanh
mai trúc mã
Thanh
mai trúc mã (青梅竹马) (thanh mai: mai xanh,
trúc mã: ngựa trúc), thành ngữ này dùng để chỉ sự đẹp đôi hoặc duyên nợ lứa đôi
và nó có nguồn gốc từ bài thơ Trường Can hành (長干行) của Lý Bạch. Bài thơ có 30 câu, có thể nói là một thiên
diễm tình.
Nguyên văn:
折花門前劇;
郎騎竹馬來,
繞床弄青梅。
同居長千里,
兩小無嫌猜。
十四為君婦,
羞顏未嘗開;
低頭向暗壁,
千喚不一回。
十五始展眉,
願同塵與灰,
常存抱柱信,
豈上望夫台?
十六君遠行,
瞿塘灩澦堆;
五月不可觸,
猿聲天上哀。
門前遲行跡,
一一生綠苔。
苔深不能掃,
落葉秋風早。
八月蝴蝶黃,
雙飛西園草;
感此傷妾心,
坐愁紅顏老。
早晚下三巴,
預將書報家;
相迎不道遠,
直至長風沙。
郎騎竹馬來,
繞床弄青梅。
同居長千里,
兩小無嫌猜。
十四為君婦,
羞顏未嘗開;
低頭向暗壁,
千喚不一回。
十五始展眉,
願同塵與灰,
常存抱柱信,
豈上望夫台?
十六君遠行,
瞿塘灩澦堆;
五月不可觸,
猿聲天上哀。
門前遲行跡,
一一生綠苔。
苔深不能掃,
落葉秋風早。
八月蝴蝶黃,
雙飛西園草;
感此傷妾心,
坐愁紅顏老。
早晚下三巴,
預將書報家;
相迎不道遠,
直至長風沙。
Phiên âm:
Thiếp
phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Dịch nghĩa:
Khi tóc vừa buông trán, hái hoa trước
cổng chơi. Chàng cưỡi ngựa tre đến, quanh giường tung trái mai. Trường
Can cùng chung xóm, cả hai đều thơ ngây. Mười bốn, về làm vợ, thiếp còn e lệ
hoài. Cúi đầu vào vách tối, Gọi mãi, chẳng buồn quay. Mười lăm, mới hết thẹn,
Thề cát bụi không rời. Bền vững lòng son sắt, há lên Vọng phu đài. Mười sáu,
chàng đi xa, Cù Đường, Diễm Dự đôi. Tháng năm không đến được, Vượn buồn kêu
trên trời. Trước cổng vết chân cũ, rêu xanh mọc um tùm. Rêu nhiều không quét hết,
Gió thổi, lá vàng rơi. Tháng tám bươm bướm vàng, trên cỏ vườn bay đôi. Cảnh ấy
đau lòng thiếp, Má hồng buồn phôi pha. Khi chàng xuống Tam Ba, nhớ gởi thư về
nhà. Thiếp sẽ mau đi đón, Đến thẳng Trường Phong Sa.
Dịch
thơ:
XÓM TRƯỜNG CAN
Tóc
em vừa chấm bờ vai
Bẻ
hoa dưới ánh ban mai trước nhà
Chàng
từ cưỡi ngựa trúc qua
Nghịch
đùa tung quả mơ hoa quanh giường.
Trường
Can cùng ngụ lân hương
Hai
ta đâu biết vấn vương là gì !
Mười
bốn em bước vu quy
Về
bên chàng có biết chi là tình
Nên
thường cúi mặt lặng thinh
Mặc
cho chàng gọi trăm nghìn không quay
Mười
lăm rạng rỡ mày ngài
Nguyện
cùng chàng hết trần ai tro tàn
Lòng
tin ôm cột giữ giàng
Thì
đâu em phải lên đàng vọng phu ?
Muời
sáu chàng bước viễn du
Cù
Đường, Diễm Dự mịt mù xa khơi
Tháng
năm không thể đến nơi
Vượn
buồn hót thảm bên trời bi ai
Trước
sân còn đậm dấu hài
Nay
rêu kín phủ đơn sai mấy lần
Rêu
dày không quét được sân
Lá
thu theo gió trải ngần thềm xưa
Tháng
tám bướm dập dìu đưa
Phía
tây vườn cỏ cho vừa nhớ thương
Cảnh
vui lòng luống đọan trường
Đếm
từng ngày tháng phấn hương phai nhòa
Bao
giờ chàng đến Tam Ba
Nhớ
thư tin báo về nhà đợi mong.
Đón
chàng đâu ngại núi sông
Nguyện
vì nhau, mặc Trường Phong ...dãi dầu.
(Bản dịch của Đào Thái Sơn)
Như
vậy có thể thấy, cả bài thơ của Lý Bạch tả mối tình thơ ngây của chàng
trai và cô gái, hai người cùng ngụ trong xóm Trường Can, thuở nhỏ luôn luôn nô
đùa quấn quít cùng nhau, bằng hai câu thơ: “Lang kị trúc mã lai. Nhiễu sàng lộng
thanh mai.” (Chàng cưỡi ngựa tre đến,
quanh giường đùa với trái mai xanh). Do đó, nói: “trúc mai”
là chỉ tình yêu thắm thiết của một đôi trai gái.
Theo
cách giải thích của học giả An Chi trên báo Sài gòn giải phóng online
thì có khác đôi chút. Chẳng hạn: “Trúc mã” ở đây là gậy tre mà trẻ con lấy giả
làm ngựa để cưỡi chứ không phải “ngựa tre”, “sàng” là ghế chứ không phải là giường.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét