Thú
thật tôi không rành chữ Hán nên không hiểu hết tựa đề của bài thơ, xin tạm dịch thô thiển “Hành Giả Chi Ca” là “Bài Thơ của Vị Tăng Đi
Khất Thực”. Nếu dịch sai hay thiếu xin lượng thứ.
Đây là bài thơ ai đọc cũng biết viết về nhà sư Thích Minh Tuệ, một hiện tượng mới trong xã hội và trong lịch sử đạo Phật Việt Nam. Trong bài viết nầy tôi chỉ cảm nhận những cái hay của thơ, còn những mặt khác của hiện tượng tôi không dám bàn đến.
Đọc
khổ đầu của bài thơ ta thấy hình ảnh một con người cô đơn, nhưng con người cô
đơn ấy rất tự tại, thong dong và ngạo
nghễ:
Ta
đi! Một mình trên đường lớn!
Không
xe máy lạnh chẳng lọng che
Không
tụng niệm loa vang dậy đất
Không
hoa không cờ. Không có gì...
Khổ
thơ có nhiều chữ không, nhưng mỗi chữ không cho ta một cảm xúc như nhẹ bớt
trong tâm hồn, vơi bớt những vướng bận nặng nề trong tâm tư, trên thể xác. Nhớ
một đoạn thơ trong bài Hành của Thâm Tâm: “Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!/ Mẹ
thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu
say”. Chữ “thà” ở đây cũng chỉ một sự
buông bỏ để thành không, nhưng sao buồn quá, còn chữ “không” của Đặng Tiến thì
nghe như những tiếng reo vui.
Khổ
thơ thứ hai cũng cho ta nhiều chữ không. Không chùa, không thiền viện, không
rao giảng, khôngt báng bổ và không để ý đến sự khen chê của người đời:
Không
đệ tử kẻ hầu người hạ,
Không
chùa chiền, thiền viện cũng không
Không
giao giảng càng không báng bổ
Ai
khen ai chê cũng mặc lòng.
Đọc
khổ thơ nầy ta thấy vị tăng đi khất thực độc đáo, đôc đáo ở chổ giống một con
thuyền trôi trên biển, trong lòng thuyền cũng trống rỗng, nó trôi lênh đênh vô định mà trăng thanh gió
mát hay bảo táp mưa sa thì cũng thế, con thuyền vẫn trôi êm đềm trên mặt nước.
Vào
khổ thơ thứ ba và thứ 4 cho ta nhìn thấy một cõi vô vi trong đời sống của nhà
sư, cõi vô vi đó thanh thản đến vô biên nhưng lại nằm ngay trong sự xô bồ của
trần thế:
Trời
đất làm nhà, ăn một bữa
Cỏ
vuông làm chiếu, nước một chai
Bát
khất thực lõi nồi cơm điện
Chắp
vải trăm nơi, áo khoác người.
Không
nhận làm thầy! Ai theo, mặc
Ai
bỏ không theo, cũng vậy thôi
Dặm
dài, cứ đầu trần chân đất
Cứ
đi. Đi mãi. Sẽ đến nơi...
Đức
Phật ngày xưa cũng tu như thế trong 6 năm trường, nhưng xã hội ngày xưa gần với
thiên nhiên, thiếu nhiều phương tiện văn mình. Ngày nay, con người quen có sự
sung mãn vật chất, dư dật, dồi dào, vậy mà có một người buông bỏ cho thành
không tất cả, lui về sống như thời thiên cổ.
Thật khó lắm thay! Nghị lực người
ấy phải kiên trì như thánh như thần mới
đươc.
Khổ
thơ thứ 5 có nhắc đến Hạnh Đầu Đà của Hành Giả. Đây là một phương pháp tu Trung
Đạo (không hưởng thụ và không quá ép xác). Người tu Hạnh Đầu Đà là tu theo
phương pháp tu của Đức Phật. Ngài trải qua tuổi trẻ trong cung vàng điện ngọc
và trải qua 6 năm ép xác đã ngộ ra nhiều hạnh tu trung đạo, trong đó có Hạnh Đầu
Đà là cách tu có khổ hạnh nhưng không
quá ép xác, từ đó ngài đồng ý cho đại đệ tử của mình là Ca Diếp thực hành:
Phật
dạy "Hạnh đầu đà" tu tập
Hành
giả, một đời nguyện noi theo
Cõi
ta bà bao nhiêu phiền lụy
Phát
Tâm ta không bước chân vào...
Hai
khổ thơ kế tiếp thứ 6 và thứ 7 kể về sự mạc pháp của thời nay, và nói về hiện
tượng bách tính rời bỏ bến mê quay về nẽo chánh:
Giữa
thời buổi ma tăng lúc nhúc
Chùa
lớn tượng to mọc mọc đầy
Buôn
thần bán thánh chùa như chợ
Tăng
đoàn béo tốt mặt hây hây.
Bách
tính bến mê! Nô nức đến
Lễ
lạt tưng bừng! Mút mút mùa
Hương
đăng quả thực chay cùng mặn
Cúng
dường tấp nập. Mắt đong đưa...
Tác
giả mở đầu bài thơ bằng chữ “Ta Đi!”, như thế lời trong cả bài thơ là tác giả
nói lại lời của Hành Giả. Từ đó, ở khổ thơ thữ 6 ta thấy, Hành Giả chỉ buông là
buông được sự hưởng thụ dục vọng đời nầy, còn tâm trí ngài thì chưa buông được.
Ngài còn đau xót bởi “Ma Tăng buôn thần bán thánh’ đến nỗi “Chùa như Chợ”, đến
nỗi “Tăng đoàn béo tốt mặt hây hây”.
Khổ
thơ thứ 7 chỉ hành động buông bỏ sự hưởng thụ của Hành Giả dã làm thức tỉnh
bách tính, họ rời bỏ bến mê, nô nức đến với ngài. Nhưng than ôi, bao nhiều năm
bị bọn ma tăng nhồi sọ, nay họ đã mở mắt ra, nhưng cái tâm và thói quen của họ
vẫn còn chưa sáng hẳn. Do đó họ đến với ngài không khác chi họ cung phụng bọn
ma tăng lúc trước: “Lễ lạt từng bừng mút mút mùa/ Hương đăng quả thật chay cùng
mặn/Cúng dường tấp nập. Mắt đong đưa…”. Chao ôi, biết đến bao giờ bọn ma tăng mới
không còn ảnh hưởng nữa, biết đến bao giờ tâm Phật trong lòng bách tính sáng
ra, không mê tín dị đoan, không bị bọn áo cà sa tâm “cà chớn” lừa phỉnh nữa.
Ngày đó chắc còn xa!
Khổ
thơ thứ 8 là nỗi đau xót tận cùng của người Hành Giả. Ngài bi quan, tiêu cực,
buông trôi, ra đi một mình, để hưởng thụ vô vi, hòa nhập cùng thiên nhiên trời
đất, chỉ một mình mình thôi. Người có tâm như Hành Giả tất nhiên không muốn như
thế, nhưng hiện nay, đời xô đẩy phải lẻ loi như thế:
Thôi
đành chấp nhận. Thôi đành vậy
Hành
giả một ta! Chỉ một thôi!
Đường
ta chọn, ta đi sẽ đến
Thảnh
thơi! Gió cuốn cùng mây trôi.
Đọc
khổ thơ nầy, nước mắt ta rơi, có thể rơi rât nhiều để khóc cho ngài, để khóc
cho ta, đề khóc cho bá tành. Tuy thế sự ra đi của Hành Giả có thể cho ta nhiều
hy vọng, bởi ngài mới ra đi mà bách tính đã từ bỏ bến mê, nô nức đến với ngài.
Nếu một mai ngài đắc đạo, thì bọn ma tăng không còn đất sống. Ngày xưa thái tử
Tất Đạt Đa cũng chỉ ra đi một mình, nhưng kết quả của ngài cho cả thế gian được
hưởng .
Hai
khỏ thơ cuối cùng như tiếng thơ của người tráng sĩ, người anh hùng, người tiên
tri, người thánh hiền, nó vang vọng vào lòng ta những âm vang của sự cao cả, của
sự vỹ đại, của một niềm vui trong nội tâm hòa cùng trời đất:
Đêm
nay! Cổng nghĩa trang ngủ tạm
Vạn
vạn hồn làm bạn vui chumg
Đêm
mai! Một mái hiên nào đó
Cõi
tạm. Hề chi phải bận lòng.
Hành
giả! Hề! Ta ngâm một khúc!
Ta
vui! Trời đất cũng ngất ngây
Phật
là ta và ta là Phật!
Nhất
tâm! Kìa ánh chớp! Sao bay.
Đây
là hai khổ thơ diễn đạt hết sự sảng khoái trong tâm hồn người Hành Giả màn trời
chiếu đất, mặc áo trăm mảnh, ăn mỗi ngày một bửa không được no. Khổ thơ cũng
cho chúng ta, những phàm phu, cũng có được hưởng thụ phút giây thăng hoa trong
lạc thú thanh cao của người Hành Giả đi sông hồ tu học Phật!
Châu Thạch
HÀNH GIẢ CHI CA
[Học theo Liêu Thái bạn ta]
------
Ta đi! Một mình trên đường lớn!
Không xe máy lạnh chẳng lọng
che
Không tụng niệm loa vang dậy
đất
Không hoa không cờ. Không có
gì...
Không đệ tử kẻ hầu người hạ,
Không chùa chiền, thiền viện
cũng không
Không giao giảng càng không
báng bổ
Ai khen ai chê cũng mặc lòng.
Trời đất làm nhà, ăn một bữa
Cỏ vuông làm chiếu, nước một
chai
Bát khất thực lõi nồi cơm điện
Chắp vải trăm nơi, áo khoác
người.
Không nhận làm thầy! Ai theo,
mặc
Ai bỏ không theo, cũng vậy
thôi
Dặm dài, cứ đầu trần chân đất
Cứ đi. Đi mãi. Sẽ đến nơi...
Phật dạy "Hạnh đầu
đà" tu tập
Hành giả, một đời nguyện noi
theo
Cõi ta bà bao nhiêu phiền lụy
Phát Tâm ta không bước chân
vào...
Giữa thời buổi ma tăng lúc
nhúc
Chùa lớn tượng to mọc mọc đầy
Buôn thần bán thánh chùa như
chợ
Tăng đoàn béo tốt mặt hây
hây.
Bách tính bến mê! Nô nức đến
Lễ lạt tưng bừng! Mút mút mùa
Hương đăng quả thực chay cùng
mặn
Cúng dường tấp nập. Mắt đong
đưa...
Thôi đành chấp nhận. Thôi
đành vậy
Hành giả một ta! Chỉ một
thôi!
Đường ta chọn, ta đi sẽ đến
Thảnh thơi! Gió cuốn cùng mây
trôi.
Đêm nay! Cổng nghĩa trang ngủ
tạm
Vạn vạn hồn làm bạn vui chumg
Đêm mai! Một mái hiên nào đó
Cõi tạm. Hề chi phải bận
lòng.
Hành giả! Hề! Ta ngâm một
khúc!
Ta vui! Trời đất cũng ngất
ngây
Phật là ta và ta là Phật!
Nhất tâm! Kìa ánh chớp!
Sao bay.
Đặng Tiến (Thái Nguyên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét