VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ HẢI NHƯ
Nhà thơ Hải Như tên thật là Vũ Như Hải, sinh ngày 28/3/1923, quê ở làng Bái Dương, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, mất ngày 30 – 6 - 2017. Ông tham gia cách mạng trước năm 1945 trong Hội truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội. Năm 1946, ông vào quân đội, tham gia lớp đào tạo báo chí cách mạng đầu tiên mang tên Huỳnh Thúc Kháng ở chiến khu Việt Bắc. Sau đó, ông lần lượt công tác ở các báo Sông Lô, Vệ quốc quân, Cứu quốc và báo Giác Ngộ rồi chuyển sang chuyên viết thơ. Ông là nhà thơ thuộc thế hệ đầu của cách mạng.
Tác phẩm chính:
- Trái
đất mai này còn lại tình yêu (NXB Văn học, 1985)
- Bài
thơ trên bến Nhà Rồng (tập thơ, 1990)
- Nỗi
buồn hoa bất tử (NXB Lao động, 1994)
- Thơ
viết về Người (NXB Nghệ An, 2004)
- Trò
chuyện với người xưa (dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát,
1994)
- Xin
ai chớ phụ hoa ngâu (văn xuôi, 1996)
- Vị
thượng khách nhà tù Hương Cảng (kịch bản văn học, 1990)
- Có
hai dòng văn chương (tác phẩm tuyển chọn, 2009).
Nhà
thơ Hải Như nổi tiếng về những bài thơ chủ đề Bác Hồ với cách thể hiện rất
riêng, một lối đi riêng - rất Hải Như, không giống bất cứ nhà thơ nào. (Trên mạng
xã hội và báo chí có rất nhiều bài viết phân tích sâu về thơ Hải Như viết về
Bác Hồ, nên tôi xin phép không nhắc lại).
Nhà
thơ Hải Như là một danh nhân văn hóa của Nam Định nói riêng và của cả nước nói
chung thời kỳ hiện đại. Ông không chỉ đóng góp cho Nam Định mà còn cho nhiều tỉnh
trên lĩnh vực văn học thông qua các bài thơ viết về từng địa phương, trong số
đó có hơn trăm bài đã được phổ nhạc, nhiều bài trở thành nhạc hiệu, truyền thống
địa phương. Xin nêu một số ví dụ:
-
Cả Hà Nội hành quân (Nhạc Lê Lôi) được chọn làm nhạc hiệu Đài phát thanh Hà Nội.
-
Hà Nội thành phố của niềm tin (nhạc Hồ Bắc).
-
Thành phố hoa phượng đỏ (nhạc Lương Vĩnh).
-
Thành phố tiếng thoi (nhạc Huy Thục) được lấy làm nhạc hiệu Đài phát thanh Nam
Định.
-
Sài Gòn thế kỷ, Thành phố không có hoàng hôn (nhạc Hoàng Đạm).
- Nụ
cười Đà Lạt (nhạc Trương Quang Lục).
-
Hoa sữa (nhạc Phạm Đình Sáu).
-
Liên khúc Hoa trong vườn Bác và hợp xướng Chào bình minh thời đại (Lời thơ Hải
Như; nhạc Cố nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn, năm 1970 Nhà hát giao hưởng Việt Nam đã
cho ra mắt tại Nhà hát lớn ở Hà Nội).
-
v.v...
Mới
đây trên tạp chí “Xây dựng Đảng” và nhiều báo tạp chí khác đã đăng bài ca ngợi nhà
thơ Hải Như. Đặc biệt, kênh truyền hình HTV9 thành phố Hồ Chí Minh phát lại bộ
phim 2 tập của Hãng phim TFS sản xuất năm 2006 nói về nhà thơ Hải Như đã thể hiện
rõ nét chân dung một tài thơ đích thực được nhiều tổ chức, nhiều nhân vật quan
trọng như nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên Tổng bí thư Trường Chinh,
nguyên Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành... đánh giá rất cao. Hoàng Tùng (nguyên Bí
thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân) xuất hiện trong bộ phim
đã nhận định: “Tập thơ của Hải Như viết về Hồ Chí Minh đã đi vào di sản thơ ca
cách mạng, đi vào thơ văn trữ tình của dân tộc ta...”. Nguyên Phó Thủ tướng
Đoàn Duy Thành phát biểu: “Thơ của nhà thơ Hải Như có tính hiện đại, luôn luôn
sát thực tế, chịu trách nhiệm nói lên thực tế bằng văn học để giúp những nhà
lãnh đạo suy nghĩ về mình và đất nước...”. Còn đồng chí Trường Chinh thì khích
lệ nhà thơ Hải Như “cùng nghĩ với Đảng”, nói như cách nói hiện nay là khích lệ
phản biện để xây dựng Đảng...
Nhiều
tỉnh bạn rất coi trọng cống hiến của nhà thơ Hải Như đối với địa phương, đất nước,
biểu hiện ở hàng trăm bài viết trên phương tiện thông tin, làm phim về ông, ca
ngợi xứng đáng với ông...
“POST – HỒ CHÍ MINH” VÀ THƯ GỬI TỔNG BÍ
THƯ CỦA NHÀ THƠ HẢI NHƯ
Tôi thầm nghĩ: Thời đại nào Nam Định
cũng có những nhà thơ tài năng chân chính làm đẹp quê hương. Nhà thơ Hải Như là
một trong số đó. Ông xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân Nam Định.
Dịp ông về thăm thành phố Nam Định
quê hương tháng 4 năm 2012, tôi may mắn được gặp ông. Ông có người con trai hy
sinh tại Quảng Trị, chưa tìm thấy mộ. Biết tôi cũng từng chiến đấu ở Quảng Trị,
ông coi tôi như con. Ông khen qua blog của tôi thấy tôi là người có tâm với quê
hương Nam Định. Ông tin tưởng gửi cho tôi nhiều sáng tác của ông để tôi đăng
lên blog.
Được ông cho phép, kỳ này chúng tôi
công bố bài thơ POST – HỒ CHÍ MINH kèm thư gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bằng
đường bưu điện từ năm 2007 (khi đó Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là Chủ tịch Quốc
hội). Tháng 2 năm 2012 ông gửi lại thư
này mà đến nay vẫn không có hồi âm. Ông cho rằng có lẽ thư bị tắc ở khâu trung chuyển
nên Tổng Bí thư chưa nhận được. Bởi nếu nhận được thì Tổng Bí thư đã phúc
đáp... Nay chúng tôi đưa thư lên blog hy vọng may ra tới được Tổng Bí thư.
POST – HỒ CHÍ MINH tiếng Pháp là Hậu
thời đại Hồ Chí Minh. Đó là tên bài thơ của nhà thơ Hải Như sáng tác năm 2007
báo động về sự suy thoái, tha hóa đạo đức của một bộ phận không nhỏ đảng viên,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Cùng toàn bộ
sáng tác của ông, bài POST – HỒ CHÍ MINH thể hiện ý thức trách nhiệm của người
nghệ sĩ chân chính mọi thời đại, trước sự hưng vong của dân tộc đều lên tiếng
xây dựng với các nhà cầm quyền. Raul Gamzatovich Gamzatov từng nói đại ý rằng:
Những người thày thuốc viết bệnh sử con bệnh, còn các nhà văn nhà thơ viết bệnh
sử của dân tộc, của nhân loại. Nhà thơ Hải Như là một người như thế. Ông thấy
rõ sự thật. Ông nhìn thẳng vào sự thật, trung thực và thẳng thắn nói lên sự thật
bằng tấm lòng trung thành với dân tộc và Đảng Cộng sản Việt Nam mà cả đời ông
đi theo cống hiến.
Bài thơ và thư gửi Tổng Bí thư của
ông là hành động thiết thực hưởng ứng lời kêu gọi góp ý với Đảng trong đợt học
tập Nghị quyết 4 của Trung ương.
POST – HỒ CHÍ MINH
Hải
Như
“Sư
tử trùng thực Sư tử nhục”
Kinh
Đại – Niết – Bàn Phật Giáo.
Người
cộng sản hôm qua được Dân tộc nhìn nhận là Lực đẩy
Nhưng
rất có thể trở thành Lực cản
Khi
đất nước không còn giặc nhân dân thừa nhận chấm công
Lúc
ấy Đảng dễ biến thành chiếc “Phao cứu sinh”
Cho
những kẻ hư hỏng tha hóa liên – minh – thành – một – khối
Bao
che tội lỗi quần – chúng – biết – hết cho nhau
Không
ai khác. Chính Hồ Chí Minh
Người
đã nhìn xa cảnh báo chuyện này
Lịch
sử đang lên tiếng hỏi:
Lớp
lớp cháu con các má Miền Nam
Đội
quân tóc dài rầm rập kéo đi biểu tình hôm qua
Khiến
quân đội Mỹ hạ súng chào thua
Sau
30 năm thống nhất đất nước lại muốn... thay đời
Ồ ạt
đi lấy chồng không – cần – biết – mặt Hàn Quốc, Đài Loan
Chúng
ta chớ vội say sưa tự huyễn hoặc
Với
những con số GDP nhảy múa hàng năm trên diễn đàn Quốc hội
Hãy
nhìn thẳng vào mâm cơm đồng bào còn đứt bữa vùng sâu vùng xa
Khoảng
cách giàu nghèo không rút ngắn mà ngày càng rộng ra...
Trong
con mắt quần chúng hôm nay:
Người
cộng sản đang tự - đánh – mất – mình nghiêm trọng
Không
thích làm dân chỉ muốn – ngược lại Hồ Chí Minh
Làm
quan Cách mạng
Nghe
chăng lịch sử rung chuông:
Coi
chừng... Lực cản!
(Nhà
vườn Thạch Lộc Q.12 Sài Gòn, 24 – 11 – 2007)
THƯ GỬI TỔNG BÍ THƯ
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 02 năm 2012
Kính
gửi: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng
Tổng
bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Kính
thưa Anh,
Trên tư cách nhà thơ chuyên khám phá
đề tài Hồ Chí Minh với quan điểm sáng tác: Không xưng tụng công đức Lãnh Tụ mà
thông qua nhân cách Hồ Chí Minh, nhà thơ viết về Chúng Ta. Trên 40 bài thơ về đề
tài Bác của tôi đã được Đ/C Hoàng Tùng cho đăng trên báo Nhân Dân dịp kỷ niệm
hàng năm sinh nhật Người.
Tôi muốn gửi lại Đ/C Nguyễn Phú Trọng
bức thư và bài thơ Post – Hồ Chí Minh mà cách đây 5 năm – ngày 12/12/2007 tôi gửi
theo đường bưu điện lên Anh trên cương vị Chủ tịch Quốc Hội. Tôi cho rằng bức
thư đó văn phòng Quốc Hội không chuyển tới Anh vì nhà thơ không được Chủ tịch
Quốc Hội phúc đáp.
Bài thơ Post – Hồ Chí Minh tôi viết
theo chỉ thị tác giả “Nhật ký trong tù”: thơ cần có thép. Tôi coi bài thơ sẽ rất
có ích cho việc xây dựng Đảng – quét sạch Chủ Nghĩa Cá Nhân hôm nay. Bài thơ
đáp ứng tinh thần Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành T/Ư Đảng khóa 11
do Anh là tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật mang ý nghĩa sống còn của Đảng, tôi
mạn phép gọi là báo động đỏ, phù hợp với câu thơ tôi viết sau ngày Hồ Chủ Tịch
qua đời:
Không
đáng sợ kẻ thù trước mặt
Sợ
nhất kẻ thù ẩn náu trong ta.
Tôi hy vọng bài thơ “Post – Hồ Chí
Minh” sẽ được Tổng bí thư duyệt đăng trên báo Nhân Dân lúc này. Xin cảm ơn Anh
nhiều. Tôi đón chờ thư hồi âm của Anh Nguyễn Phú Trọng mà tôi đặt niềm tin.
Kính thư: Hải Như.
KHÁT VỌNG HÒA BÌNH TRONG THƠ HẢI NHƯ
Hơn ai hết, người lính mong muốn
trên đời không còn cảnh những người vợ chờ chống như nàng Tô Thị. Họ hiểu, trân
trọng tư tưởng và góc nhìn khác thường, chân thực về chiến tranh của nhà thơ Hải
Như.
"Nàng Tô Thị không còn cầu chúc
hành tinh"
(Thơ Hải Như)
Tượng nàng Tô Thị từ lâu đã trở thành
biểu tượng người vợ lính chờ chồng mòn mỏi đến hóa đá. Ngày 27-7-1991, tượng
nàng Tô Thị bị kẻ xấu phá đổ để lấy đá nung vôi. Dư luận quần chúng bất bình,
xôn xao, báo chí thi nhau lên án Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Lạng Sơn đã thiếu
trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ tượng nàng Tô Thị.
Mùa xuân năm 1992, nhà thơ Hải Như
cùng phu nhân từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội và lên thăm Lạng Sơn. Trước sự
việc tượng nàng Tô Thị bị phá và dư luận bất bình, nhà thơ Hải Như đã sáng tác
bài thơ "Tô Thị" thể hiện rõ cái nhìn và quan điểm của mình. Qua bài
thơ, ông muốn lý giải rằng dân tộc Việt Nam vốn hiếu hòa chứ không hề hiếu chiến
như lâu nay phương Tây vẫn hiểu không đúng...
Khi về Hà Nội, nhà thơ Hải Như gửi
bài thơ cho nhà viết kịch Tào Mạt. Nhà viết kịch Tào Mạt đọc xong, chép ngay lại
bài thơ và cho rằng cần được công bố bài thơ này. Nhưng rất tiếc, bài thơ đã
không được công bố trên báo chí. Sau này nhà thơ Hải Như đưa bài thơ vào tập
"Nỗi buồn hoa bất tử" NXB Lao Động, 1994).
Tạp chí Nhà văn số ra tháng 12-2011
và Báo Đà Nẵng tháng 8-2012 đăng bài "Lời liệt sĩ thành cổ Quảng Trị"
của nhà thơ Hải Như. Nhà thơ đã thay lời các liệt sĩ trong 81 ngày đêm máu lửa
bảo vệ thành cổ Quảng Trị (trong đó có con trai nhà thơ) nói rõ điều mà các liệt
sĩ mong muốn là xây dựng một "xã hội nhân văn", chứ không phải chiến
tranh, bởi chiến tranh:
Là nước mắt - chia ly, là máu đổ
Là "Nhất tướng công thành vạn cốt
khô".
Phải chấp nhận cuộc chiến tranh không
hề mong muốn kéo dài 1/3 thế kỷ là sự bất hạnh. Vì thế, không nên dùng những mỹ
từ nói về nó như "Thời hoa lửa"... Viết đến đây tôi không thể không
nhớ lại những ngày trên đường ra trận vào năm 1972 đầy gian khổ, bom đạn ác liệt,
hy sinh mất mát lớn lao của đơn vị và đồng đội.
Tôi may mắn được sống sót trở về, còn
hàng vạn đồng đội đã nằm lại chiến trường. Hàng vạn bà mẹ trở thành bất hạnh.
Biết bao người vợ mòn mỏi chờ chồng hóa đá như nàng Tô Thị. Hơn ai hết, người
lính chúng tôi mong muốn trên đời không còn cảnh những người vợ chờ chồng như
nàng Tô Thị. Và tôi hiểu, trân trọng tư tưởng và góc nhìn khác thường, chân thực
về chiến tranh của nhà thơ.
Từ quan điểm tư tưởng và cái nhìn đối
với chiến tranh thể hiện ở hai bài thơ vừa nêu, nhà thơ Hải Như lên án:
Nhưng con người với con người
Đêm đêm trên màn ảnh nhỏ
Vẫn chĩa súng vào nhau.
Và... vẫn thản nhiên cười (?)
(Gấu trúc Ata).
Ông coi sự kiện đôi tình nhân Bosko
và Admira vượt qua mọi tị hiềm để giữ vững tình yêu và bị bắn chết vào năm 1993
là "Vết nhơ thế kỷ".
Cái nhìn ấy, tư tưởng, quan điểm ấy của
nhà thơ bắt nguồn từ tình yêu hòa bình, truyền thống hiếu hòa của dân tộc Việt
Nam. Có yêu hòa bình mới căm ghét chiến tranh. Nhà thơ Hải Như đã thể hiện rõ
tình yêu hòa bình và với hai bài thơ trên, tình yêu hòa bình ở nhà thơ đã vượt
lên thành khát vọng hòa bình.
Mời
các bạn đọc hai bài thơ của Nhà thơ Hải Như sau đây:
TÔ THỊ
"Nàng
Tô Thị không còn cầu chúc hành tinh"
Ta
không buồn khi mất nàng Tô Thị
Lòng
sắt son hóa đá đứng chờ chồng
Bởi
không muốn ngợi ca hoài chung thủy
Còn
chiến tranh vợ mòn mỏi xa chồng...
Đào
xứ Lạng - Cảm ơn bông nở muộn
Đón
khách thơ. Ta đi với người tình
Từ
nửa nước phía nam lên ải bắc
Nàng
Tô Thị không còn - cầu chúc hành tinh!
Có
phải hai dân tộc đã nhìn ra quá khứ
Đáng
rủa nguyền - xương máu rải đầy non
Nàng
Tô Thị cảm thấy cần vắng bóng
Cho
vĩnh viễn hòn Vọng phu ta, bạn không còn...
Đừng
thi vị đường đầy hoa ra mặt trận
Mẹ
già ta cần ta cạnh bên người
Suốt
đời mẹ đã làm nàng Tô Thị
Chiếc
áo trấn thủ chồng, mẹ ấp ủ tàn hơi.
Biên
giới là gì? Lòng người không biên giới
Cột
mốc dựng chia chẳng ngăn nổi tìm nhau
Hội
Lùng tùng mở Đồng Đăng trai Bằng Tường băng tới
Ta
cảm thông hai mảnh đất địa đầu!
Ta
không buồn khi mất nàng Tô Thị
Chiều
Lạng Sơn soi bóng nước Kỳ Cùng
Ồ
em nhỉ - ta theo dòng chảy ngược
Làm
một cuộc du hành. Biên giới vốn cùng chung...
(Lạng Sơn - Bằng Tường mùa Xuân 1992)
Rút
trong tập "Nỗi buồn hoa bất tử" của Hải Như, NXB Lao Động, 1994.
LỜI LIỆT SĨ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
"Nhĩ
lai bất quý sát nhân công" (*)
(Nguyễn Du)
Cảm
ơn các bạn không quên chúng tôi
Đã
ngã xuống trong 81 ngày đêm chấn giữ Thành cổ.
Hàng
năm các bạn vẫn đến thả đèn hoa trên dòng Thạch Hãn.
Chiến
tranh là gì?
Là
nước mắt - chia ly, là máu đổ
Là
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô"
Thời
của thế hệ chúng tôi không nên dùng mỹ từ "Thhời hoa lửa"
Bất
hạnh cho dân tộc ta - một dân tộc hiếu hòa.
Phải
chấp nhận trận chiến kéo dài không muốn- phần ba thế kỷ
Chúng
tôi mong được các bạn mỗi lần đến cho biết:
Giấc
mơ về một "xã hội nhân văn" chúng tôi mang theo vào trận đánh
Các
bạn hôm nay phấn đấu thực hiện đến đâu rồi?
(TP. Hồ Chí Minh, tháng 8-2011)
(*)
Pháo đài, dịch nghĩa là: Từ nay việc giết người không còn coi là có công.
TẤM LÒNG NHÀ THƠ HẢI NHƯ VỚI
QUÊ HƯƠNG NAM ĐỊNH
Tôi
được biết các nhà lãnh đạo địa phương Nam Định trước đây như Phan Điền, Nguyễn
Văn An, Bùi Xuân Sơn, Trần Minh Ngọc, Trần Văn Tuấn... rất coi trọng nhà thơ Hải
Như. Mỗi lần nhà thơ về thăm quê đều được lãnh đạo địa phương cho xe đón từ Hà
Nội và tổ chức gặp gỡ thăm hỏi. Cố Bí thư tỉnh Phan Điền có lần về tận quê thăm
hỏi thân sinh nhà thơ Hải Như. Gần đây, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An
trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh đã đến nhà thăm nhà thơ Hải Như…
Tôi cũng từng biết: Nhà thơ Hải Như
góp ý cho nguyên Bí thư tỉnh ủy Phan Điền để người bạn của ông là kiến trúc sư
nổi tiếng Nguyễn Cao Luyện thiết kế xây dựng Bảo tàng cổ vật Nam Định trên hồ
Thượng Lỗi. Bảo tàng lịch sử thì địa phương nào cũng có, nhưng bảo tàng cổ vật
thì chỉ có ở Nam Định:
Nhà
truyền thống đuổi giặc ngoại xâm không quê nào vắng thiếu
Riêng bảo tàng cổ vật trưng bày văn hiến
chỉ thành Nam!
(Thơ Hải Như)
“Hình thành từ thú chơi thu nhỏ vũ trụ
riêng”, nhà Cổ vật được thể hiện dưới hình thức hòn non bộ rất độc đáo. Nơi đây
từng là điểm du lịch thú vị của khách tham quan, là nơi “cho ta thả hồn bay bổng
hôm nay”. Rất tiếc, giờ đây công trình Nhà bảo tàng cổ vật từng là chứng tích
mang nét văn hóa đặc sắc của tình nhà, là niềm tự hào của người dân địa phương,
đã bị phá bỏ.
Ai là người yêu mến văn hiến Nam Định
mà không thấy buồn trước tình trạng xuống cấp, mai một di tích nhà thơ Trần Tế
Xương và chẳng đồng tình với ý kiến thẳng thắn, chân thành của nhà thơ Hải Như
góp cho nhà cầm quyền địa phương cần tôn tạo nhà Tú Xương cho xứng với tầm danh
nhân... Ở góc độ này, nhà thơ Hải Như đã hành động như một “Gián quan” trung thực
và dũng cảm.
Trong bài “Thơ ghi bên tượng đài Trần
Hưng Đạo” sáng tác năm 2000, nhà thơ Hải Như thức tỉnh người dân, người lãnh đạo,
người cầm quyền:
Trong
các trang sử biên niên rực rỡ triều Trần
Có
một trang khiến thế hệ sau chúng ta tự hào mãi mãi
Các
vua Trần vô cùng hiện đại: 40 tuổi nhường ngôi...
Thơ
Hải Như bộc lộ tình yêu tha thiết quê hương, yêu những người con quê hương ưu
tú như nhạc sĩ Đặng Thế Phong, nhà thơ Tú Xương, thi sĩ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng
Chương..., yêu nhớ đến da diết những phố hàng Nâu, Hàng Thao, chợ Rồng..., nuối
tiếc đặc sản kẹo Sìu Châu nay không còn như trước, nhớ nét bản sắc quê hương
(Guốc làng Nam Dương), tự hào với làng rèn Vân Chàng... Càng tự hào và yêu nhớ
quê hương bao nhiêu, ông càng trăn trở, buồn về những cái tốt đẹp bị mai một, về
sự thờ ơ vô cảm của những người có trách nhiệm trước sự xuống cấp của di tích
văn hóa, của “nếp sống thành văn” Nam Định.
Về
Nam Định đi với anh – em sẽ vui và cả buồn sung sướng gặp
Vũ
Hoàng Chương đang ngắm “Mây” tựa lan can căn gác phố Cửa Trường
Và
Nguyễn Bính vừa đọc thơ cho chị em chợ Rồng bài “Lỡ bước sang ngang” em thuộc
đó
Nam
Định còn phải mang tính cách Thành phố Văn Chương...
Đọc
những bài thơ viết về Nam Định của nhà thơ Hải Như, ta thấy rõ tấm lòng nhà thơ
đối với quê hương Nam Định. Chúng ta tự thấy cần phải điều chỉnh bản thân từ những
thông điệp thơ ông.
TÌNH BẠN GIỮA CHÍNH KHÁCH
TRẦN XUÂN BÁCH VÀ NHÀ THƠ HẢI NHƯ
“Làm văn học với tôi là một lựa chọn “dấn thân”. Quan niệm của tôi: Nhà
thơ không chỉ là pháp sư ngôn ngữ mà phải là nhà tư tưởng.
Người
làm thơ phải ý thức được quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ... Ngồi trước
trang giấy nhà thơ không được quên đối tượng cần được thức tỉnh của mình bao gồm
cả nhà cầm quyền”.
Với nhận thức vị trí nhà thơ trong
nền văn học cách mạng, nhà thơ Hải Như ghi trong kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại
như thế.
Mùa thu 2012 nhà thơ Hải Như từ Sài
Gòn ra thăm quê Nam Định. Chúng tôi đã đến thăm và đề nghị nhà thơ cung cấp tư
liệu, xin phép được công bố về tình bạn của nhà thơ với ông Trần Xuân Bách cùng
một số bài thơ chưa công bố... Được Nhà thơ cho phép, Blog tranmygiong xin gởi
tới bạn đọc bài viết dưới đây.
Lịch sử văn học Việt Nam sau này, tôi
nghĩ, không thể không ghi nhận giai thoại về tình bạn cao đẹp của một nhà chính
trị với một nhà thơ thời Cách mạng nước ta đang bước vào đổi mới những năm 90 của
thế kỷ 20. Đó là tình bạn tâm giao của chính khách Trần Xuân Bách và nhà thơ Hải
Như.
Trong sáng tác văn học, nhà thơ Hải
Như chủ trương “có bài sáng tác rồi nhưng chưa công bố rộng rãi vội”. Theo nhà
thơ, “trong kho dự trữ người cầm bút luôn nhớ cần có sáng tác chưa công bố
(inédit)”. Lần này, chúng tôi giới thiệu một số bài chưa công bố của nhà thơ Hải
Như về chủ đề Bảo tàng Hồ Chí Minh và tình bạn với ông Trần Xuân Bách.
Theo nhà thơ Hải Như thì sinh thời Hồ
Chí Minh là người chống tệ sùng bái cá nhân. Người không muốn các địa phương dựng
tượng Người tràn lan như hiện nay khiến thế hệ sau có thể hiểu không đúng về
Người. Chúng ta không được quên trong di chúc Người căn dặn Đảng, nhân dân trước
lúc đi xa:
...“Sau
khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ
và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi,
tức là "hỏa táng". Tôi mong rằng cách "hỏa táng" sau này sẽ
được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn
đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì "điện táng" càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái
hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi
mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một một
ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng
có chỗ để nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và
chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây
nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên
giao phó cho các cụ phụ lão...” (Trích Di chúc của Hồ Chí Minh)
Nhưng khi Người ra đi, theo nhà thơ Hải
Như, chúng ta đã không làm theo Di chúc của Người. Chúng ta đã dựng Lăng Người,
sau đó lại xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh nguy nga đồ sộ.
Năm 1988 từ thành phố Hồ Chí Minh,
nhà thơ Hải Như qua báo chí thấy công trường xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh
trong khi đào móng, dàn búa máy đã làm nghiêng có nguy cơ đổ chùa Một Cột. Báo
chí đã lên tiếng nhưng vô vọng. Nhà thơ đã viết một bản kiến nghị gửi Bộ Chính
trị Trung ương Đảng và Quốc hội, đề nghị ngừng công trường xây dựng Bảo tàng Hồ
Chí Minh do “không hợp với tâm nguyện của Người”, dành số tiền xây dựng bảo
tàng cho một công trình phúc lợi toàn dân như mạng máy nước thành phố Hà Nội
năm đó đang bị hư hỏng nặng. Kiến nghị của Nhà thơ Hải Như kèm theo bài thơ có
tựa đề “Bài thơ chưa in báo”.
Bảo tàng Hồ Chí Minh từ ngày thành lập
đến nay đã “lộ rõ” sự không cần thiết phải đồ sộ như vậy. Hiện vật chưng bày
không nhiều và không hấp dẫn khách đến thăm. Hội trường chỉ dùng cho thuê các hội
nghị và tổ chức lễ cưới. Sân rộng lớn thành bãi cho thuê đỗ xe. Không chỉ Bảo
tàng Hồ Chí Minh mà các bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương trên
cả nước có kế hoạch xây dựng bằng công quỹ quốc gia cũng trong tình trạng tương
tự. Nhà thơ Hải Như, ngay từ năm 1988 của thế kỷ trước đã “báo động” về sự lãng
phí công quỹ nhà nước của các bảo tàng cả nước hôm nay...
Nguyên văn bài thơ về Bảo tàng Hồ Chí
Minh của Hải Như như sau:
BÀI THƠ CHƯA IN BÁO
Hải Như
“Chúng ta đã lỡ làm lăng Bác...”
H. NH.
Ra
Hà Nội mùa xuân này anh không dám vào nhà sàn thăm Bác
Nghe
nói Người đang rất buồn – vầng trán trĩu ưu tư
Có
ai báo với Người: chùa Một Cột do ảnh hưởng địa chấn – bị hư!
***
HỒ
CHÍ MINH. Nhiều chúng ta tưởng hiểu hết Người hóa ra chưa hiểu
Người
từ chối mọi huân chương. Ta đi xây dựng bảo tàng
Khi
ra khỏi chiến tranh Bác Hồ dặn lại dân sẽ gặp nghìn cái thiếu
Không
gia đình nào Bắc cũng như Nam lại không gánh chịu một vành tang...
***
Ý
Bác tức lòng dân. Người vắng mặt đi xa. Lòng dân ta chưa hỏi
Xây
dựng công trình ngoài ý Bác đồng nghĩa với xúc phạm lòng dân
Đừng
vin cớ vì Bác Hồ, Người dân hiểu hơn hết Bác Hồ nhưng không nói
Dân
tộc ta giờ này thiếu Bác Hồ dân thấm thía nghìn năm!
***
Nhà
sàn Bác Hồ được tôn thêm nhờ đứng cạnh đóa sen hồng: chùa Một Cột
Hành
trình Việt Nam vượt qua bao ghềnh thác xuyên suốt 4000 năm
Chúng
ta sẽ sai lầm nếu xếp Bác Hồ đứng trên và đứng trước.
Chẳng
phải ngẫu nhiên trước ngày về giải phóng Thủ đô 54 – Người xin gặp các vua
Hùng...
***
Hồ
Chí Minh không bao giờ nhận mình mới đâu. Và thật ra không mới!
Lẽ
làm người từ NGUYỄN TRÃI (luôn luôn Bác Hồ nhắc ta) đã có tự cha ông
“Chở
thuyền là dân lật thuyền cũng là dân” nhân loại năm 2000 càng thấy mới
Chúng
ta vui có HỒ CHÍ MINH góp với tinh hoa nhân loại giống Tiên Rồng.
***
Bảo
tàng HỒ CHÍ MINH cần không! Chắc em muốn hỏi anh. Lịch sử ngày mai cần lắm chứ!
Nhưng
bảo tàng HỒ CHÍ MINH quyết không giống mọi bảo tàng
Ngoài
hiện vật duy nhất huyền thoại “đôi dép lốp hành quân” mỗi người dân sẽ trở
thành hiện vật.
Bảo
tàng nằm trong lòng dân – tết vòng nguyệt quế Nhân Quần...
(Sài Gòn, ngày 2
tháng 3 năm 1988).
Bài
thơ đã trở thành “gạch nối” của quan hệ tình bạn giữa tác giả và Ủy viên Bộ
Chính trị Trần Xuân Bách – vị lãnh đạo thời đó đang nổi như cồn về thái độ trọng
thị các sĩ phu hai miền qua các diễn đàn.
Ba tháng sau, trong chuyến ra Hà Nội
nhà thơ Hải Như đã được đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trần Xuân Bách tìm gặp. Đồng chí Trần Xuân Bách nhận được bài thơ đã không trả
lời nhà thơ qua Văn phòng Trung ương Đảng mà trực tiếp “vi hành” vào ngõ Hòa
Bình 5 đường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội khi nhà thơ vừa từ Sài Gòn
ra, bởi – ông nói vui khi gặp Hải Như ở nhà con trai nhà thơ – nhà báo Vũ Kỳ
Anh: “Tôi muốn trực tiếp gặp một “cái đầu”của xã Bái Dương. Tôi muốn diện kiến
người cùng huyện làm thơ”. (Nhà thơ Hải Như và chính khách Trần Xuân Bách đều
quê ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, nhưng chưa gặp nhau bao giờ). Đồng chí Trần
Xuân Bách thông báo với Hải Như là Bộ Chính trị hoan nghênh ý kiến đóng góp của
nhà thơ Hải Như, nhưng không thể ngừng công trình vì đã vào kế hoạch được Nhà
nước phê duyệt. Trong suốt một giờ đồng hồ gặp gỡ trao đổi cởi mở, ông Trần
Xuân Bách tỏ ra rất vui và bảo là ông đã gặp được một nhà thơ có tính trung thực
thẳng thắn đòi hỏi cần có ở người cầm bút chân chính mọi thời.
Trong buổi gặp gỡ lần đầu giữa chính
khách Trần Xuân Bách và nhà thơ Hải Như có một kỷ niệm khó quên. Nhà thơ Hải
Như hôm nay nhớ lại:
“Khi Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân
Bách tới, tôi mời lên gác nhà con mình ngồi chờ để mình pha nước đem lên mời
khách. Sau khi nghe Trần Xuân Bách tự giới thiệu thân mật, tôi nghĩ thầm: Mình
từng được tiếp xúc các vị lãnh tụ như đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn
Đồng... nhưng do các đồng chí đó cho thư ký riêng đến nhà mời. Với Trần Xuân
Bách, từ lâu tôi đã ngưỡng mộ. Giới trí thức ngày ấy coi anh như một ngôi sao
sáng trong bầu trời chính trị bắt đầu cởi mở qua thái độ trân trọng các trí thức
của anh.
Tỏ ra cởi mở ngay phút đầu gặp gỡ,
tôi chủ động nói:
- Tôi thật sự bất ngờ! Xin cảm ơn Ủy
viên Bộ Chính trị đã “vi hành” vào ngõ hẻm khi được tin tôi ở thành phố Hồ Chí
Minh mới ra. Vừa rồi cháu gái nội tôi năm nay lên 9 tuổi khi nghe tôi nói có
ông khách Trung ương đến nhà, cháu hồn nhiên hỏi: “Ông ơi! Ông ấy ở Trung ương
sao lại không béo ạ? Con thấy trên ti vi ông nào ở Trung ương cũng bệ vệ cũng
béo mà!” Tôi xin phép được nói lại với anh ý nghĩ của trẻ thơ.
Trần Xuân Bách rất vui đáp lại:
- Mình không béo à?
Tôi hỏi:
- Anh có biết giai thoại về nhà điêu
khắc Thorwaldsen người Đan Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh không?
Trần Xuân Bách lắc đầu. Tôi xin phép
được kể:
- Nhà điêu khắc Thorwaldsen người Đan
Mạch và nhà thơ Lord Byron người Anh là những danh nhân nổi tiếng thế kỷ 19.
Khi nhà thơ Lord Byron đến thăm xưởng của nhà điêu khắc Thorwaldsen, nhà điêu
khắc xin được tạc tượng nhà thơ danh tiếng nước Anh để thể hiện ý tưởng và tư
duy của nhà thơ mà ông khâm phục. Sau một giờ say sưa tạc tượng bán thân của
thi hào Lord Byron, Thorwaldsen dừng tay xin nhà thơ cho biết cảm nhận về tác
phẩm của mình. Nhà thơ Lord Byron nói: “Bạn không tạc tôi mà tạc một anh chàng
yên ổn. Tôi không hề giống bức tượng này!”. Thorwaldsen phản ứng: “Có gì xấu nếu
người ta sung sướng!”. Thi hào Lord Byron tái mặt đi vì tức giận: “Hạnh phúc và
sự yên ổn khác nhau như đá hoa và đất sét. Chỉ những kẻ ngu và những người tâm
hồn thấp kém mới tìm sự yên ổn trong thế kỷ còn nhiều bất công xã hội mà chúng
ta đang sống này! Chẳng lẽ trên khuôn mặt tôi lại không có nét nào nói lên sự đắng
cay, lòng can đảm và đau khổ của suy nghĩ ư?”. Thorwaldsen cúi đầu trả lời:
“Ngài nói rất đúng! Con dao khắc đã phản tôi. Được gặp thi hào tôi vui quá nên
con mắt tôi đã sai lệch.”
Nghe tôi kể xong câu chuyện, ông Trần
Xuân Bách ôm lấy vai tôi:
- Hải Như, anh đã “minh họa” lời nhận
xét của cháu nội anh về tôi một cách khá thú vị!
Trước khi ra về, ông Trần Xuân Bách
ôm chặt tôi một lần nữa, xúc động nói:
- Hải Như ơi! Chúng ta bắt đầu trở
thành tri kỷ!”
Sau buổi gặp gỡ này, không một lần
nào vào Sài Gòn mà Trần Xuân Bách không cùng phu nhân đến thăm nhà thơ Hải Như
tại nhà riêng ở đường Nguyễn Hữu Cảnh, Quận 1. Hai người đàm đạo tâm đầu ý hợp,
cùng trăn trở về Di chúc của Bác Hồ không được thực hiện, cùng chia sẻ về nhận
thức xã hội, về văn học Cách mạng hiện trong tình trạng như Giáo sư Hoàng Ngọc
Hiến nhận xét là “Văn học phải đạo”.
Trước khi bị kỷ luật Đảng, vào ngày Rằm
tháng Giêng âm lịch (sau Tết Nguyên Đán) 1990, đồng chí Trần Xuân Bách vào Sài
Gòn họp Bộ Chính trị đã tới số nhà 27H đường Nguyễn Hữu Cảnh, Quận 1 thăm Nhà
thơ Hải Như. Tại đây, nhà chính khách đã đọc cho nhà thơ nghe bài thơ của mình
làm và nhờ góp ý. Bài thơ như sau:
BÀI
THƠ KHAI BÚT 1990
Bách Xuân
Ngày
xuân nhớ cụ Tú Xương
Cố
nhân chính trực đồng hương nghĩa tình.
Lẳng
lặng mà nghe tiếng nói dân
Lấy
dân làm gốc phải nghe dân
Trí
khôn thiên hạ không hề thiếu
Chỉ
sợ người ngu thích kẻ đần!
Ngay ngày hôm sau, nhà thơ Hải Như đã
đến Nhà khách thành ủy T78 nơi nghỉ của đồng chí Trần Xuân Bách góp ý với tác
giả nên thay từ “người” ở câu “Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần!” bằng từ “mình”.
Nhà chính khách Trần Xuân Bách tiếp thu ngay nhưng lấy làm tiếc vì đã đọc cho
nhiều trí thức ở Hà Nội và Sài Gòn chép cả rồi.
Đồng chí Trần Xuân Bách nhận thức sâu
sắc rằng cuộc sống vốn đa nguyên, cách mạng muốn thắng lợi phải đi con đường hợp
quy luật. Ông từng nói: “Chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực
hiện đa nguyên chinh trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp
váp”. (Trích Hồi ký Làm báo của Tống Văn Công). Chính tư tưởng đi trước thời đại
này đã khiến ông “lâm nạn”. Ngày 27 – 3 - 1990 Hội nghị Trung ương lần thứ 8,
khóa 6 đã quyết định cách chức Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách. “Chỉ có hai ủy
viên Bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt (thiểu số) cho rằng, từ quan
điểm “lấy dân làm gốc”, Trần Xuân Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai
chân” thì đất nước mới phát triển...” (Trích Hồi ký Làm báo của Tống Văn Công).
Nhiều người không dám tiếp xúc với đồng
chí Trần Xuân Bách khi ông lâm nạn vì sợ liên quan. Nhưng với nhà thơ Hải Như,
tình bạn giữa hai người – nhà làm chính trị và nhà làm văn học coi như không có
chuyện “cắt đứt”. Bạn bè can ngăn đừng đến Trần Xuân Bách vội nhưng nhà thơ Hải
Như vẫn cứ đến thăm bạn đang gặp hoạn nạn. Trong Hồi ký Làm báo của Tống Văn
Công có đoạn viết: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên “quyền cao
chức trọng”, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm
ông thày cũ của họ đâu! Cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống “một thời
vô luân” mà!”
Nhà thơ Hải Như kể: “Ngày 20 tháng 5 năm
2002 tôi viết bài thơ ngắn biểu dương người bạn đời của ông Trần Xuân Bách những
năm dài sóng gió đã làm điểm tựa cho chồng...”.
Nguyên văn bài thơ như sau:
TRẦN
XUÂN BÁCH
Chắc
chắn lịch sử sau này sẽ giành một trang về anh - khách quan phán xử
Tôi
chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái
Trần Xuân Bách mất rõ rồi nhưng còn cái được tuyệt vời sao!
Chia
sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh
Có
một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão
(Chúng
ta từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo)
Trần
Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác. Đúng không nào?
Trên
chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm
hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh
Từ
Sài Gòn mỗi lần ra ghé thăm – tôi vui làm nhân chứng Một tình yêu...
Hà Nội
– Trung Tự, ngày 20 tháng 5 năm 2002
Ông Trần Xuân Bách không viết hồi ký
mà làm thơ. Xin giới thiệu một bài thơ của Bách Xuân Trần Xuân Bách do tác giả
đọc cho nhà thơ Hải Như ghi:
TRONG MƠ GẶP CỤ NGUYỄN DU
Một
cơn giông chiều
Một
đêm mưa đá
Có
lạnh những tình yêu?
Có
chân nào trượt ngã?
Bạn
hỏi tôi vì sao
Nguồn
thơ vẫn dạt dào
Khi
tiếng sóng ồn ào
Khi
trời giông sấm động
Vì
lòng tôi không trống một niềm tin!
Trong
một giác mơ
Được
tiếp chuyện nhà thơ
Cùng
Nguyễn Du bất tử...!
Bên
lành bên dữ
Phải
chăng phân giới bởi quyền uy?
Biết
nói năng chi
Sau
câu hỏi bất ngờ
Của
nhà thơ
Thay
cho câu trả lời
Tôi
xin phép nhà thơ
Được
sửa đôi dòng bất hủ:
“Thiện
căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ QUYỀN”
Cụ
Nguyễn Du mỉm cười rơi nước mắt
Ngâm
câu kiều “lẩy”:
“Nợ
đời chưa trả cho ai
Khối
tình giữ trọn cho đời chưa tan
Nỗi
riêng không chút bàng hoàng
Tình
dân nghĩa nước vẹn toàn trước sau
Thiện
căn ràng buộc lấy nhau
Vào
luồn ra cúi công hầu mà chi!”
Ôi
giấc mơ thần kỳ
Một
đêm mưa đá
Giữa
bầu trời Thủ Đô...
(Hà Nội đêm 29 tháng 03 năm 1990)
Ngày 01 tháng 01 năm 2006 chính khách
Trần Xuân Bách qua đời. Trên báo Nhân Dân có bài đánh giá những cống hiến của
Trần Xuân Bách trong hoạt động cách mạng. Cuối cùng thì Trần Xuân Bách đã được
nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của
chế độ… Chưa phải là tất cả, nhưng như vậy, người ta đã phải thừa nhận tư tưởng
đổi mới đi trước của Trần Xuân Bách.
Từ thành phố Sài Gòn, nhà thơ Hải Như
đã viết bài thơ vĩnh biệt nhà chính trị lỗi lạc của Cách mạng Việt Nam, một
nhân cách lớn được giới sĩ phu mến mộ tài năng. Bài thơ này ghi trong sổ tay của
nhà thơ. Được nhà thơ nhân chuyến mùa thu (2012) về thăm quê Nam Định cho phép,
nay blog tranmygiong xin công bố rộng rãi:
VĨNH
BIỆT NGƯỜI BẠN CÙNG QUÊ
Hải Như
(Thay
một nén nhang tưởng niệm Bách Xuân – Trần Xuân Bách)
Ngồi
trên ghế quyền lực cao nhất Anh tìm đến ngõ Hòa Bình 5 đường Minh Khai gặp nhà
thơ
Anh
và tôi cùng huyện nhưng 2 vị trí khoảng cách xa nhau – chưa giáp mặt bao giờ
Tôi
ngạc nhiên khi thấy Anh lẫn trong đám đông và... không có 2 cằm(?)
Nghe tôi từ Sài Gòn ra Anh tới
thăm ngay để trả lời bài thơ gởi Trung Ương tôi kiến nghị
Ngừng
xây dựng Bảo Tàng Hồ Chí Minh nhường cho công trình phúc lợi Người dân
Có
cả một văn phòng – có thư ký riêng nhưng Anh đích thân “vi hành” vào ngõ hẻm
Tôi
nhớ tới câu thơ hôm nào Anh ghi tặng tôi:
“Bác
Hồ là chúng ta khi chúng ta thật sự là chúng ta...”
Ngày
Anh đi xa trên báo Nhân Dân bạn đọc thấy Những – gì – thuộc – về - Anh đều được
trả lại
Tôi
bỗng liên hệ đến có kẻ nhất định đòi “treo cổ” Anh ngày ấy
Chẳng
biết sẽ nghĩ gì khi cầm tờ báo sáng xuân nay
TRẦN
XUÂN BÁCH. Tôi biết Anh “dám tin riêng mình đúng số đông sai” như câu thơ tôi
viết về Kim Ngọc
Chúng
ta từng nói với nhau: Chân lý nằm trên mặt phẳng
Nhưng
nhiều khi đến được Chân lý con người bị “loạn thị” đã đi vòng...
(Sài Gòn, ngày 6/1/2006)
H. NH
Tình bạn tâm giao giữa chính khách Trần
Xuân Bách với Nhà thơ Hải Như đã trở thành giai thoại của một thời Cách mạng gặp
khúc quanh.
TRẦN
MỸ GIỐNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét