ĐƯỜNG VỀ QUÊ MẸ
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai
thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn
ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the
nâu
Trông u chẳng khác thời con
gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt
vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai
lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người
quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận
gái
Đường về quê mẹ vẫn không
quên.
1942
(Đoàn Văn Cừ toàn tập. – H.: Hội Nhà văn,
2013)
"ĐƯỜNG VỀ QUÊ MẸ" - ĐƯỜNG VỀ QUÊ
THƠ
Lời
bình của Trần Mạnh Hảo
Bài
thơ "Đường về quê mẹ" là một bài thơ khá tiêu biểu của nhà thơ Đoàn
Văn Cừ, in trong tập "Thôn ca" năm 1942. Năm 1941, khi giới thiệu thơ
Đoàn Văn Cừ trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh đã viết: "Trong
các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ".
Hoài Thanh lại cũng rất đúng khi viết: "Nhưng nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi
lại nghĩ đến tết". Trong dịp tết Nguyên Đán này, chúng ta cùng theo Đoàn
Văn Cừ lên "Đường về quê mẹ", để tìm ra con đường về quê thơ của tác
giả hơn năm mươi năm trước hồn hậu và thương mến biết chừng nào...
Bài
thơ có sáu khổ, viết theo bút pháp tả thực, chân mộc và giản dị theo kiểu tranh
thuỷ mạc, không chuốt lục tô hồng, không siêu hình siêu thực, không uốn éo vặn
vẹo mà lại rất thơ. Ấy là bởi Đoàn Văn Cừ nói bằng tình thực:
"U
tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm
liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại
dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên
miền quê ngoại của hai thân".
Có
thể, một vài bạn làm thơ trẻ bây giờ, đọc tới những dòng trên của Đoàn Văn Cừ
hơn nửa thế kỷ trước, chép miệng, tặc lưỡi chê: thơ thẩn gì mà quê mùa thế!
Vâng Đoàn Văn Cừ quê mùa thật, cái quê mùa
của thi ca, của hạt luá củ khoai, của nông thôn nước Việt. Thơ Đoàn Văn Cừ thật
như hình ảnh "U tôi ngày ấy", như "Dặm liễu mây bay" và
chân thành, chân chất như "Miền quê ngoại"... chỉ nhìn được, cảm được,
nhưng không phân tích được... Khổ thơ bốn câu ba vần, nhà thơ xử dụng vần ân:
xuân, gần, thân tạo cho người đọc cảm giác rân rân, gần gần, phân thân, bần thần...
như một tiếng chuông ngân dài mãi nỗi phân vân "U tôi" ngày ấy. Thơ họ
Đoàn là bức tranh tĩnh vật, nhưng là tĩnh vật của tĩnh vật, tuy có bóng người
đang hoạt động đấy nhưng vì nó xưa quá, xa quá nên lặng lẽ quá, yên bình quá tưởng
như không còn thấy thơ đâu cả, chỉ toàn vật sinh tâm, tâm sinh cảnh, cảnh sinh
tình, tình sinh... thơ:
"Tôi
nhớ đi qua những rặng đề
Những
dòng sông trắng lượn ven đê
Cồn
xanh, bãi tiá kề liên tiếp
Người
xới cà ngô rộn bốn bề".
Nếu
khổ thơ thứ nhất, nhà thơ tả cảm giác về không gian và thời gian, khổ thơ thứ
hai tả khái quát toàn cảnh quê hương, nơi nhà thơ thời bé theo mẹ về quê ngoại
ngày đầu xuân, thì khổ thứ ba là khổ thơ thành công nhất của bài thơ vì nó tả rất
hay người mẹ Việt Nam xưa:
"Thúng
cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên
vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông
u chẳng khác thời con gái
Mắt
sáng, môi hồng, má đỏ au".
Bài
thơ từ tĩnh chợt chuyển sang động, hoạt và bừng lên như giữa vầng lá xanh chợt
đột ngột hiện một bông hồng chớm nở. Người mẹ hiện lên đẹp như buổi sáng mùa
xuân, gọn gàng và duyên dáng từ diện mạo, thần sắc đến trang phục như nét thanh
tân dịu dàng của một cô Tấm, của một Giáng Kiều bước ra từ bức tranh Tố Nữ làng
quê. Khổ thơ này tả người nhưng thực ra để tả tình, tả tình nhưng là cốt để
nâng cảnh nông thôn Việt Nam lên cho quyến rũ và đa tình, cho thân thương và hấp
dẫn.
Cái
duyên ngầm của người mẹ xưa cũng chính là cái duyên ngầm của thơ vậy. Khi mắt
người đọc đã đọc sang tiếp khổ thơ khác, nhưng lòng thì đã ở lại, nhập vào hồn
vía của câu thơ "Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au" từ lúc nào rồi. Khổ
thơ này về ngoại hình thì động, nhưng hồn của nó lại ở thể tĩnh. Người mẹ xưa
đã bước vào thơ Đoàn Văn Cừ, để tuổi đôi mươi duyên dáng lại mãi với bài thơ,
không bao giờ già đi, mất đi như người mẹ thật ngoài đời. Thời gian ngừng lại
không qua mùa hạ mùa thu, mà mãi mãi là mùa xuân với bà mẹ tuổi xuân xanh trong
thơ họ Đoàn muôn thuở. Nhà thơ dùng bút pháp tĩnh lặng của thi ca phương Đông để
làm xao động lòng người đọc: lấy tĩnh mà khơi động, lại biết lấy động mà đạt
tĩnh là nghệ thuật của tranh Tống vậy.
Khổ
thơ thứ tư tác giả mượn cảnh giãi bày tâm trạng, mượn cái đông vui để diễn tả nỗi
cô đơn và cái buồn của trời đất:
"Chiều
mát đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn
người về ấp gánh khoai lang
Trời
xanh cò trắng bay từng tốp
Xóm
chợ lều phơi xác lá bàng".
Ba
câu thơ đầu của khổ thơ này phải nói là vui như tết, mắt ta đọc đến nhưng tình
chưa đến kịp. Nhưng đến câu thơ thứ tư, mắt ta chưa đọc hết mà tình đã đến trước
rồi vậy: "Xóm chợ lều phơi xác lá bàng". Hoá ra mùa xuân vừa đến, hồn
của mùa đông vừa lìa khỏi xác lá bàng. Không phải cái lá bàng mà xác lá bàng,
chỉ còn xác, vì cái hồn lá bàng đã về hư vô cùng với mùa đông vừa biến mất. Xác
lá bàng rải rác trên các lều chợ kia đỏ như vệt máu đau thương của mất mát,
chính là nỗi buồn xưa còn vương lại trong bài thơ. Nhà thơ ngầm cám ơn cái lá
bàng rụng xuống cho mùa xuân về, cũng chính là nỗi lòng biết ơn quá khứ, biết
ơn người mẹ.
Chính
quy luật sinh diệt của tạo hoá trong số phận xác lá bàng kia khiến ta cùng với
nhà thơ, cố gắng lần cuối, níu lấy ngày xưa, níu lấy thì con gái của mẹ và níu
lấy tuổi thơ thần tiên của mình, nhưng chừng như nón quai thao xưa đã mang đi tất
cả:
"Bóng
u hay bóng người thôn nữ
Cuối
nón mang đi cặp má hồng".
Chiếc
nón thời gian đã che mất cặp má hồng của quá khứ, chỉ còn là hoài niệm, nỗi buồn
cũng cần phải biết lắng xuống như phù sa, để niềm an ủi nổi lên, để làng xóm
bình phẩm về đức hạnh của mẹ, cũng là đức hạnh của nông thôn Việt Nam và là đức
hạnh của thơ Đoàn Văn Cừ:
"Tới
đường làng gặp những người quen
Ai
cũng khen u nét thảo hiền
Dẫu
phải theo chồng thân phận gái
Đường
về quê mẹ vẫn không quên".
Có
thể bạn trẻ làm thơ bây giờ cho là người bình bài thơ này tán hưu tán vượn, chứ
thơ Đoàn tiên sinh thật như đếm, nôm na như mô - đen nâu sồng giờ không ai mặc
nữa. Có thể thơ họ Đoàn còn chút nôm na, nhưng là cái nôm na của rơm rạ, của
khói bếp làm nên vẻ răng đen bồ hóng, của hồn quê đất nước nhà tranh vách đất,
của cái nôm na níu kéo tình người. Đọc bài thơ này của ông, không hiểu sao tôi
cứ có cảm giác cái đẹp hồn hậu, cái đẹp chân nhiên nhất bao giờ cũng biết khoác
lên mình chút vẻ sương khói của nỗi buồn vạn cổ. Mùa xuân, chúng ta hãy tìm về
vơi nông thôn, nơi không chỉ là quê hương của dân tộc Việt, mà còn là quê hương
của thi ca, quê hương của hồn người, tình người muôn thuở, để cám ơn nhà thơ
Đoàn Văn Cừ, còn giữ lại cho ta cái bâng khuâng
thương mến, cái mỹ cảm của một thời đại đã đi qua.,.
Nam
Định 1985
TMH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét