Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi...
*
“Trong
âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như
một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm
nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi
cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư...” - Trịnh Công Sơn.
Năm
2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao - người
đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn: hội họa, thi ca và âm nhạc.
Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật: hội họa, âm nhạc và thi ca.
Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.
Không
đợi khi xuân đến, tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ:
“Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp
tết Bính Thìn năm 1976.
Đây
là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây
cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn
nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào
nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở
than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc
nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ
vơ nhiều...
Hầu
như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản
nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột,
ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế
giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình…
Nghe
đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng
không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian,
nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi
lòng mình.
Riêng
lời bài hát đã là một bài thơ hay:
“Rồi
dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa
bình thường mùa vui nay đã về
mùa
xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với
khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một
trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi
dặt dìu mùa xuân theo én về
Người
mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa
xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước
mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm
vui phút giây như đang long lanh.
ôi
giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi
giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ
đây người biết quê người
Từ
đây người biết thương người
Từ
đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa
xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với
khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một
trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Rất
nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có
cuộc đời êm ấm... nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên
sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế,
xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ
nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng
gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết:
“một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:
Nhật
mộ hương quan hà xứ thị,
Yên
ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời
về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên
sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt
nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất
đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài
hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu
bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu
linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự
liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ...
Chừng
như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về? Chừng như gần hết
cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy
chim én báo xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn
ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê
hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng,
không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên
mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa
xuân?
Và
chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn
đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội
nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, (thuê căn gác chật hẹp cũ
kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai
Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một
thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam
dân chủ cộng hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị
cấm)?
Và
chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng
mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến
những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng
như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975: “có một triệu người Việt Nam vui thì
cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã
hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ
thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn
thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng
xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh
đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?
Có
lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau
khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01-01-1976, được hát
trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh
thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của
mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra
khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.
Xin
quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn
Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:
“Sau
khi bài "Tiến về Hà Nội" ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm
và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa...
Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết
có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng...
Tôi
còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều
ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất
30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền
âm nhạc Việt Nam.
Những
ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những
khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên
những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến
căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn
Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.” -
Trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp
chí Sông Hương” số 179-180
Văn
Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người
ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova:
“Nhưng
cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA
XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả
100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học
bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố
có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.””
Qua
tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn
gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều
“bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết
bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu
thuyết vĩ đại: “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu
(1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai”
hỏi đi đâu? Bèn bảo: đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm
à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lộc: “Vào đi”.
Người
ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại
chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30
năm vì tội Nhân Văn - Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất
nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.
Chúng
ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể
sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”:
“Đó
là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi
nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không
đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng
trong ra gần chiếc đàn piano - đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.
Một
giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói
thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với
giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15
đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn
cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.
Bài
hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4
và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi
không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình
bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được
truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như
thể bị quên lãng.
Như
mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn
thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu
nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa.
Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha
tôi đã mất được năm năm.” - Nhà thơ NGHIÊM BẰNG - THU HÀ ghi
Nhà
văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với
ông về Tố Hữu hay Trường Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông
lãnh tụ Trường Chinh cho gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “Nhân
Văn – Giai Phẩm” < *1 *> (xem thú thích dưới bài)
Xuân
Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng < *2*> (xem
chú thích cuối bài)
Với
tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội
của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang
(cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ
gây ra vụ án chống đảng “Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt
gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.
Ngay
sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân”
của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc
không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai
năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca;
nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (vì quá tẻ
nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao.
Nếu
không có bài quốc ca che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản?
Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng (với các ca khúc bất
diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “Thiên Thai”...)
trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn,
sắt máu: “thề ăn gan uống máu quân thù”... “đường ta đi xây xác quân thù”... đến
cùng tận khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương
khẩu súng lục số 7165 của tổ chức (do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu
Đỗ Đức Phin (bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép:
tao bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng
cái đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào
thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát...
Sau
này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người
là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không
còn dám gõ lên piano những giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối
mơ”, “Bến xuân”... nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế
mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào
vô tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối!
Nghe
nói Văn Cao còn bắn sẩy (bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn
và Võ Văn Cẩm (không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình
là cụ Nghiêm Xuân Huyến - một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ
tiêu trong tù?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết
cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba
mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông: “Nhân văn - Giai phẩm”...
Có
lần, Văn Cao kể cho người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc
rang, đậu phụ mắm tôm, với bạn tâm giao: nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng...)
rằng: “Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù
15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi
đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần
tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên
trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng (bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc
sĩ) còng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục
sống hèn mà trở về nuôi con...”
Có
lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm nhất là
khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em
(cùng bị đi đày lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng
bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất
cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào
có ngon lành gì...”
Ngày
30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy
người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng
hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như
phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể
thân phận “tù tại ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng
nhân văn chăng?
Dồn
nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn
nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư
nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị
chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm
xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng
phím đàn thành giai điệu Văn Cao “Mùa xuân đầu tiên” chăng?
Thành
ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp
nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông...?
Xin
xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công
an A 25 Thái Kế Toại đã in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận
của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm
là dường nào < *3 *> (xem chú thích cuối bài)
Qua
lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta
thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên
chính quê hương mình của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước
quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố,
bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua
trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm
1975...
Không
thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất
hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi
vui của người tù vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên
sông, với tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên”
này...
Chính
nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly
rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại
thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ
được, thức khuya để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường,
Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi
cung ông, suýt nữa làm ông co cẳng ù té chạy...
Suốt
một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy
thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa
bóng. Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn
cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của mình.
Đâu
rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng
miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời
góc bể trong những ca khúc tiền chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu
tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “Buồn tàn
thu”:
Ai
lướt đi ngoài sương gió,
Không
dừng chân đến em bẽ bàng,
Ôi
vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ
từ xa đường vắng.
Đêm
mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng.
Em
ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng.
Người
ơi còn biết em nhớ mong,
Tình
xưa còn đó xa xôi lòng.
Nhờ
bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên
Chim
với gió bay về, chàng quên hết lời thề.
Áo
đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng
ngày nào tìm đến?
Còn
nhớ đêm xưa kề má say sưa
Nhưng
năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần.
Thôi
tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
“Buồn
tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”.
Cái buồn của tình yêu “em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với
chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ
chinh phu “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ
quân vương “Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa
thu chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “người
lên ngựa, kẻ chia bào” của “bụi hồng dặm cuốn chinh an”...
Cái
buồn của con người gặp cái buồn của trời đất, rất “mang mang thiên cổ sầu” Văn
Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy
lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự
lưu đày mình vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm
nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do
Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu...
Ngay
từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng qua “Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng
được đắm chìm vào vương quốc Cái - Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương
thực hằng sống nuôi dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền
tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song: “Buồn tàn thu”, “Suối
mơ”, “Bến xuân” (lời Phạm Duy) “Trương Chi” và “Thiên Thai”...
Dường
như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa
ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm,
thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái
- Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế;
nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu
thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào
tai ta chất men say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn
Cao nâng cánh con người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống
là vì thế chăng?
Chừng
như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách
siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm: “Thiên thai” và “Trương Chi”, vừa mang
phong cách cao sang, nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon - thần ánh sáng và
thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos
- thần rượu nho (theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)?
Văn
Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt
tác “Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn
mà thực ra đã có ba chàng: người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy
chính là Văn Cao:
Tiếng
ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ
Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià
đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo
gió tiếng đàn xao xuyến
Phím
tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy
cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm
ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao
nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh
đênh dưới hoa chiếc thuyền nan
Quê
hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng
khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai
hát trên bờ Đào Nguyên
Thiên
Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có
một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên
Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc
nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn
soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây
đó nỗi lòng mong nhớ
Này
khúc bồng lai
là
cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn
xui ai quên đời dương thế
Đàn
non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên
Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái
ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió
hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc
chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào
Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng
bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ
quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên
nữ ơi!
Đào
Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm
Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao?
Những
khi chiều tà trăng lên
Tiếng
ca còn rền trên cõi tiên
Văn
Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp
chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng
KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được
đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng
hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly
khác, ảo diệu khác... do con đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự
thật, bờ bên kia của thế giới.
Những
giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng
lãng tử Lưu - Nguyễn - Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường
ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn
Cao đánh thức...
Văn
Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi
đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có
ma trong giai điệu du dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt
ngồi nghe một mình có thể nổi da gà:
Một
chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm
trầm không gian mới rung thành tơ
Vương
vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi,
tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Lòng
chiều bơ vơ lúc thu vừa sang,
Chập
chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một
cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây
đó từng song the hé đợi đàn.
Tây
hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò
khoan mơ bóng con đò trôi
Giai
nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh
Trương Chi
Tiếng
hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh
thương nhớ.
Oán
trách cuộc từ ly não nùng.
Đò
trăng cắm giữa sông vắng.
Gió
đưa câu ca về đâu?
Nhìn
xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền
anh đã chìm đâu!
Từng
khúc nhạc xa vời
Trong
đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương
thu vừa buông xuống
Bóng
cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Ai
qua bến giang đầu tha thiết,
Nghe
sông than mối tình Trương Chi
Dâng
úa trăng khi về khuya,
Bao
tiếng ca ru mùa thu.
Ngoài
song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn
nghe như ai nức nở và than,
Trầm
vút tiếng gió mưa
Cùng
với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng
bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về
phương xa ai nức nở và than,
Cùng
với tiếng gió vương,
Nhìn
thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò
ơi! Đêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà
ai hát dưới trăng ngà
Ngồi
đây ta gõ ván thuyền,
Ta
ca trái đất còn riêng ta.
Đàn
đêm thâu
Trách
ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi
lứa bên giang đầu.
Người
ra đi với cuộc phân ly,
Đâu
bóng thuyền Trương Chi?
Bi
kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là
bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ… Hình như Văn
Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm
tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ
Nương ca?
Hồn
Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết
nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết
ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt
khóc của người nghe nhạc hôm nay.
Thương
thay chàng Trương Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình
yêu con người, cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi
xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp
chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời.
Nàng
Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận
hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi
điều kiện, phi chính trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương - Thời
đại phụ tình, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng
chiến bất hủ: “Trường ca Sông Lô”, trong “Tiến quân ca”, trong “Làng tôi”,
trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật
thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108
Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải thuê a?)...
Trương
Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước
và hồn hóa thành đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình
thành sông. Văn Cao không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như
Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời
yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên
dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại
để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho
chàng Trương Chi - Văn Cao:
“Nàng
ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ
cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi
im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù
nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ (nhạc sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …” (bản dịch
từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền
bối Văn Cao ơi!
Âm
nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay,
rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng
ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có
cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi
ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi
thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu
gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn
thiêng liêng, cao cả này mà thôi...
Sài
Gòn ngày 23-01-2013
Trần
Mạnh Hảo
…………….
Chú thích:
<*1*>: “Tố Hữu ấy à? Không, không phải
đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng
đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói
thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn
còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc
đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo
Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết.
Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh)
mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất.
Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue
Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue
Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng
tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên,
ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Đôi lúc cũng có
hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình
nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà
bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn
hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt
Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường
Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi
đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái
nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.
http://vi.wikipedia.org/.../Phong_tr%C3%A0o_Nh%C3%A2n_V...
<*2*>: "Những
tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ
liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu
tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng
có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những
cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ.
(...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy
cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi
trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột
độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái
đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị
xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều
người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng
thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan...
...Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp.
Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của
cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh
hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới
bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của
“không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ
cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp
lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài
"Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông
46" (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện
trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt,
tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối
lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm
ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện,
trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa
cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết
chúng ta vĩ đại!" (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963,
tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
http://www.viet.rfi.fr/.../20100411-nhan-van-giai-pham...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét