BIỆT TAM THANH
Anh trải thế tình qua thế sự
Dòng sông Vĩnh Định đục hay
trong ...?
Cố quận- quê người đều đất
trích
Chỉ có quê thơ sống tận
lòng
Cùng một bào thai, hai thế kỷ
Bể dâu gởi trả cuộc Nam
hành
Bao nhiêu Từ Thứ, bao Từ Hải
...
Anh bạn của huynh- em bạn anh
!
Lòng đất anh về tìm sao Đẩu
Sao Khuê em lặng ngắm qua
mành
Giấy úa, còn nguyên hình nét
bút
Đường trần thao thức nhớ Tam
Thanh.
- bài 2.
Chiếu thơ điểm lại biệt Tam
Thanh
Cõi mộng riêng anh bước độc
hành
Dâu bể không sờn khi sóng lớn
Tang bồng chặng thẹn với ngày
xanh
Tứ thơ bay bỗng toan dừng lại
Sự nghiệp cao sang cũng phải
đành
Nằm lại Vũng Tàu nghe biển
hát
Ngàn thu bên Chúa giấc mơ
lành.
Lê Giao Văn -
CẢM
NHẬN CỦA CHÂU THẠCH
Nhà thơ Tam Thanh, tên thật Nguyễn Tiềm, sanh
1929 , quê Thanh Lê - Quảng Trị, mất 2011. Nhà thơ Lê Giao Văn quê Quảng Nam,
hiện sông tại Bà Rịa-Vũng Tàu, tiển bạn thơ của mình bằng hai bài thơ “Biệt Tam
Thanh”, bài thứ nhất là thơ Mới, bài thư hai là thơ Đường luật. Cả hai bài thơ
không có nước mắt, vì hình như nước mắt đã hóa thành hơi, bay lên vùng sao Đẩu
sao Khuê.
Đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ thứ nhất cho
ta thấy ngay nỗi đau của nhà thơ quá cố Tam Thanh không phải là nỗi đau bình
thường, đó không chỉ là nỗi đau ly hương mà còn là nỗi đau thân phận như thân
phận của kẻ bị lưu đày:
Anh
trải thế tình qua thế sự
Dòng
sông Vĩnh Định đục hay trong ...?
Cố
quận- quê người đều đất trích
Chỉ
có quê thơ sống tận lòng
“Thế
tình” là thế thái nhân tình, là thời đại và lòng người. “Thế sự” nói khái quát
là việc đời. Câu thơ đầu “Anh trải thế tình qua thế sự” cho thấy nhà thơ Tam
Thanh đã sống trường trải với bao nỗi thăng trầm trong đời, đã kinh qua nhiều
vui buồn trong cuộc sống.
Quê Hương của Tam Thanh là Quảng Trị, làng
Thanh Lê nằm bên dòng sông Vĩnh Định. Nhà thơ Lê Giao Văn cho rằng dầu Tam
Thanh ở tại quê nhà hay làm dân ngụ ở Bà Rịa- Vũng Tàu, vẫn là thân phận của một
kẻ bị đày đi xa ở nơi “đất trích”
“Đất trích là gì?
“Đất trích” xuất từ tiếng “Trích điạ” trong
Thơ Tỳ Bà Hành của Thi Sĩ Bạch Cư Dị:
Đồng
thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương
phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã
tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích
cư ngoạ bệnh Tầm Duơng thành.
Thi
Sĩ Phan Huy Vịnh dịch:
Cùng
một lứa bên trời lận đận,
Gặp
gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ
xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm
Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Ngày xưa, những ông quan có tội thường bị Vua
phạt bằng cách đổi đi làm quan ở những nơi xa đô thị, ở những vùng hoang vắng
khỉ ho, cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối. Quan lại Tàu gọi việc viên quan bị đày
đi xa là bị “biếm trích“, gọi nơi vị quan bị đày đến là “trích địa.”
Nhà thơ Lê Giao Văn chỉ dùng lại hai chữ “đất
trích” của thi sĩ xưa, đã nói lên được tất cả nỗi đau của Tam Thanh, thi sĩ thời
nay, ông không chỉ ở nơi đất trích là nơi ngụ cư, mà còn ở nơi đất trích trên
chinh quê hương Quảng Trị của mình, vì nơi đây chắc ông bị ruồng bỏ, hành hạ, đọa
đày, đối xử như là người tù bị biếm trích trên chính quê hương ông. Bởi thế Tam
Thanh phải thoát ly đến miền trích đia xứ người.
Qua khổ thơ thứ hai:
Cùng
một bào thai, hai thế kỷ
Bể
dâu gởi trả cuộc Nam hành
Bao
nhiêu Từ Thứ, bao Từ Hải ...
Anh
bạn của huynh- em bạn anh !
Nhà thơ Tam Thanh chính là bạn với hai người
anh của nhà thơ Lê Giao Văn: “Cùng một bào thai, hai thế kỷ”. Sau đó qua hai
người anh của mình, tình thơ của Văn và Thanh nẩy sinh từ đó: “Anh bạn của
huynh- em bạn anh”
“Từ Thứ” (160-220) là mưu sĩ của sứ quân Lưu Bị,
sau đó là đại thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. “Từ Hải”
là nhân vật Nguyễn Du yêu thích trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân. Đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Từ Hải lên một bước
mới, dùng hình tượng anh hùng của Từ Hải để thể hiện nguyện vọng thầm kín của
mình. Vị anh hùng ấy, ngòai thói đa tình , còn thêm hai đức tính đặc biệt khác
nữa là, lòng kiêu hãnh, chí độc lập ngang tàng.
Lê Giao Văn đã mô tả hoặc xây dựng bạn thơ của
mình, Tam Thanh thành một nhân vật đa trí đa tài như những anh hùng trong sử
sách thuở xa xưa. Để làm chi? Để nhà thơ nằm xuống, như một nhân vật “Kinh luân
khởi tâm thượng/Binh giáp tàng hung trung” (Việc chính trị đã định sẵn trong
lòng/Việc giáp binh đã sắp sẵn trong bụng) nhưng đã bị thế thời trói tay, thời
cuộc làm cho thân bại danh liệt, phải đem thân biếm trích đi cư ngụ vào nơi đất
trích xứ người!
Nhà thơ Tam Thanh mất năm 2011, Lê Giao Văn
không khóc, chỉ thao thức đêm trường đọc thơ Tam Thanh trên “Giấy úa còn nguyên
hình nét bút”:
Lòng
đất anh về tìm sao Đẩu
Sao
Khuê em lặng ngắm qua mành
Giấy
úa, còn nguyên hình nét bút
Đường
trần thao thức nhớ Tam Thanh.
Sao Đẩu là sao gì? Đó là một nhóm gồm bảy ngôi
sao ở phía Bắc trái đất, trong chòm sao Đại Hùng. Những tàu thuyền đi trên biển
ngày xưa ngắm nhóm sao nầy để định hướng đi cho mình.
Lê Giao Văn muốn linh hồn bạn mình đi tìm sao
Đẩu, là muốn bên kia thế giới, bạn mình không còn như con thuyền mất hướng,
lênh đênh phiêu dạt như trên đời trần gian nầy nữa.
Trong văn hóa Đông Á và Việt Nam, sao Khuê là
biểu tượng của văn chương, học thuật. Khuê Văn Các được xây dựng tại Quốc Tử
Giám, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, mang biểu tượng này. Những bậc bác
học lỗi lạc trong lịch sử được ví là sáng như sao Khuê; một trong số đó là Nguyễn
Trãi, đã được Lê Thánh Tông cho tạc bia: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm
hồn cao thượng của Ức Trai sáng như sao Khuê)
Lê Giao Văn thao thức hằng đêm, đọc thơ bạn
mình trên giấy úa, lặng ngắm ngôi sao Khuê qua mành, là ước vọng ở trên cao
kia, bạn thơ Tam Thanh thỏa vui, vẩy vùng nơi chốn văn chương, không bị tự khóa
tay bịt miệng như chốn trận gian nầy.
Bài thơ thứ hai Lê Giao Văn đưa tiển Tam Thanh
là một bài Đường thi, tiếng thơ nghe bình tỉnh lạ thường, âm thanh như những
con sóng gối đầu lên nhau, nhưng nỗi sầu cứ nhẹ bay, nhẹ bay như khói hương quyện
lên giữa bầu trời trong xanh, trong ngày linh hồn người bay bổng lên cao. Hai
câu thơ cuối “Nằm lại Vũng Tàu nghe biển hát/Ngàn thu bên Chúa giấc mơ lành”
hòa nhập thiên nhiên cùng cõi vĩnh hằng nơi mộ chí, như ngàn vạn con sóng biển
vọng muôn đời, tan linh hồn vào cõi vô vi. Hai câu thơ như hai cánh chim bay,
mang linh hồn cả người sống và người chết vào miền an tịnh vô biên!:
Chiếu
thơ điểm lại biệt Tam Thanh
Cõi
mộng riêng anh bước độc hành
Dâu
bể không sờn khi sóng lớn
Tang
bồng chặng thẹn với ngày xanh
Tứ
thơ bay bỗng toan dừng lại
Sự
nghiệp cao sang cũng phải đành
Nằm
lại Vũng Tàu nghe biển hát
Ngàn
thu bên Chúa giấc mơ lành.
Có lẽ không quá đáng khi tôi nói “Biệt Tam
Thanh thơ Lê Giao Văn, khóc bạn thơ hay hơn khóc bạn tình”. Thật vậy, khóc bạn
tình thì rơi nhiều nước mắt, khóc bạn thơ thì nước mắt ít rơi hoặc không rơi,
nhưng tiếng thơ rơi vào trong lòng, như rơi vào cõi quyến luyến vô biên, như tiếng
thủy tinh tan vỡ, như tiếng ngọc va vào vách đá, như tiếng nước rơi từ thạch nhủ
trong động sâu, và như tiếng sóng biển thì thầm muôn đời cùng tinh tú.
Đọc
thơ Lê Giao Văn tiển dưa bạn về trời, tôi thấy hình như có đủ những thanh âm mà
tôi đã nói ở trên ./.
Châu
Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét