Tiến sĩ Chu Mộng Long |
Đọc
đi đọc lại 50 câu thơ do Hội Nhà Thỏ chọn thả lên trời trong ngày Thỏ Việt Nam,
tôi chỉ có thể khẳng định, Hội Nhà Thỏ cố tình chơi xỏ các nhà thơ và gây ô
nhiễm môi trường văn hóa Việt.
Lựa
chọn thơ để thả thơ, tôi hiểu tiêu chuẩn đặt ra phải theo chủ đề và hay.
Chủ
đề thì nằm hẳn ở biển quảng cáo: “Sông
núi trên vai”. Theo giải thích của các yếu nhân trong Hội Thỏ, “sông núi trên vai” chính là “sông và núi trên vai”. Như bài trước tôi
viết, họ không phải dùng từ ghép “sông
núi” mà là dùng hai từ đơn “sông và
núi”. Cách dùng đó ắt là:
1)
Nhà Thỏ xem sông và núi như củ khoai và củ mì gánh trên vai.
2)
Núi cao đè lên và sông sâu nhấn chìm đôi vai Nhà Thỏ.
Nội
dung 1 tự biến Nhà Thỏ thành chị nhà quê lam lũ, cực nhọc. Nội dung 2 làm cho
Nhà Thỏ thành cỏ rác hay xác chết bị mất tích hoặc trôi lềnh phềnh trong cơn
lũ. Đó là lý do Hội Nhà Thỏ chọn chủ yếu những câu thơ bát âm, nỉ non khóc như
khóc hờ đám ma? Lừng danh là người chỉ biết lên gân và cười đầy hào khí như Tố
Hữu mà Nhà Thỏ lại chọn câu thơ sụt sùi như “Nỗi
niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên” thì đã rõ ý đồ
của Nhà Thỏ. Nhà Thỏ thả thơ trong nỗi niềm đau đớn, sợ hãi hoặc lấy thơ làm
vàng mã lót đường cho một cuộc di quan của một đám tang mang tầm quốc gia mà
chính các nhà thỏ làm đoàn người xếp hàng đi khóc mướn.
Trả
tiền cho cuộc khóc mướn này, tôi tin là không nhỏ!
Tôi
dành thời gian nói về tiêu chuẩn hay.
Vẫn
biết lấy một câu thơ ra khỏi văn bản chẳng khác gì móc đôi mắt người đẹp bỏ ra
đĩa, không chừng sẽ thành một cục thịt nhầy nhụa. Nhưng không phải không có
những câu thơ rất trọn vẹn về tứ, hình và ý gặp gỡ tự nhiên, hình lung linh, ý
sâu thẳm, tách hẳn ra vẫn hay, vẫn đẹp.
Như
câu thơ của Đặng Dung khắc tạc vào non sông hình ảnh tráng sĩ mài gươm dưới
trăng đến bạc đầu, bi thiết mà hào hùng: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ
long tuyền đới nguyệt ma”.
Như
câu thơ của Xuân Diệu tạo hình nỗi cô đơn và bi kịch của phận người, tưởng bé
nhỏ mà thành lớn lao cao cả: “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt
lệ giữa không trung”.
Ngây
thơ như cậu bé Trần Đăng Khoa cũng có những câu thơ rất hay về mẹ Việt Nam, đời
thường bình dị nhưng chứa đựng cả hồn thiêng sông núi: “Một đời đi gió đi sương/ Bây giờ mẹ lại vịn giường tập đi”, “Nắng mưa
từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”…
Trong danh sách 50 nhà thơ
được thả lên trời, trừ một số nhà thơ tào lao, đa số đều có những câu thơ hay
như tôi vừa dẫn. Nhưng thật bất ngờ, 50 câu thơ được thả ấy không khác những
con chim bị Hội Nhà Thỏ đi săn nhốt nhiều ngày, ốm đói rồi phóng sinh để nhón
tay làm phúc. Và thật vô phúc cho tất cả những nhà thơ có tên trong danh sách
ấy. Người chưa từng đọc những nhà thơ này sẽ thốt lên, rằng thơ như vậy mà
thành nhà thơ được sao?
Đại
thi hào Nguyễn Du thì được chọn một câu thơ rất sến ngang tầm mấy ông thầy cúng
làm ra để tế cô hồn: “Nỗi lòng đau đớn lạ
thường/Mặt trời vàng úa vì thương kiếp người”.
Từ
các ông cổ điển Trần Nhân Tông, Trần Nguyên Đán, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Tản Đà… cho đến các ông hiện đại như Hồ Chí Minh, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn
Đình Thi, Phạm Tiến Duật… thì được chọn những câu thơ rất sáo. Những trường hợp
Trần Nhân Tông, Trần Nguyên Đán không ai lấy thơ đánh giá sự nghiệp hay nhân
cách của họ nên chọn thơ hay hoặc dở không thành vấn đề, chọn câu nào hoặc
không chọn cũng chẳng sao. Nhưng nổi tiếng ngông nghênh, kiêu bạc như Cao Bá
Quát, Nguyễn Công Trứ, lãng mạn đa tình như Tản Đà trong thi ca Việt mà chọn
những câu này thì khác nào dìm hàng họ xuống ngang hàng mấy cô đào hát ả đào,
hát cải lương hay hát xẩm:
“Kim cổ miên man tình đất nước/ Sao mình
làm mãi một thi ông” (Cao Bá Quát), “Thương thay người ở đôi quê/Nẻo đi thì nhớ,
nẻo về thì thương” (Nguyễn Công Trứ), “Ngày ngắn, đêm dài, đêm lại sáng/Đêm qua
ai có bạc đầu không?” (Tản Đà)…
Những
câu thơ thế này mà gọi là thơ sao:
“Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười/ Vĩnh
viễn anh yêu em như yêu sự thật” (Xuân Diệu), “Lịch sử thế kỷ hai mươi là lịch
đường rừng/Thế kỷ mới chính là đường cao tốc” (Phạm Tiến Duật)?
Chế
Lan Viên có không ít những câu thơ mà tứ thơ đạt đến sự lung linh của hình
tượng và chiều sâu của trí tuệ, cảm xúc, nhưng Hội Nhà Thỏ lại chọn câu triết
lý về thơ theo lối tự sướng và rất bông phèng: “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật/Một giọt mật thành,
đòi vạn chuyến ong bay”. Triết lý về thơ như vậy thì nói ngược cũng được:
“Nhà thơ như con thỏ biến trăm rau thành một cứt/ Một cứt thành, con thỏ chạy
cong đuôi”.
Nhiều
người vì lý do chính trị mà tìm cách hạ bệ thơ Hồ Chí Minh chứ theo tôi, trong
Nhật ký trong tù và ngoài tập Nhật ký trong tù, có những câu không ở mức tầm
thường. Chẳng hạn, lấy câu này trong bài "Tân
xuất ngục học đăng sơn" cũng đảm bảo một phong cách Hồ Chí Minh, cổ
kính trang nghiêm mà lãng mạn đời thường, cao vời mà sâu thẳm, rất gắn với chủ
đề “sông núi trên vai”: “Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh/Dao vọng Nam
thiên ức cố nhân”. Còn lấy câu: “Việc
nước việc quân bàn đã dứt/ Bên song tựa gối ngủ cùng trăng” thì loại trừ
tính chất thời sự (rất phi thơ) “việc
quân việc nước” lớn lao của Cụ, tứ thơ ngủ cùng trăng rất cũ; nếu nói tứ ấy
thấm đẫm tinh thần lạc quan hay yêu thiên nhiên thì cách nói “ngủ khách sạn ngàn sao” mà mọi người
vẫn hay đùa vui có lẽ thú vị hơn.
Làm thơ ắt có câu dở câu hay.
Phải chăng Hội Nhà Thỏ cố tình chọn toàn câu thơ dở của nhà thơ đã chết để đặt
bên cạnh những câu thơ rất dở, nhạt hơn nước ốc của những của nhà thỏ đang
sống, hàng không ai biết tên tuổi như Hồng Thanh Quang, Mai Liễu, Nguyễn Hữu
Quý, Đinh Thu Vân, Lê Thành Nghị, Văn Đắc, Phạm Đức, Phạm Hồ Thu… để đánh đồng
cá mè một lứa? Câu thơ của Hồng Thanh Quang lãng nhách: “Trên cánh đồng của tôi mùa ấu thơ đã hết/những luống rạ khô như một
giấc mơ vàng”. Mơ làm bò ăn rơm à? Câu thơ của Trần Cao Sơn đứng trước mồ
liệt sĩ, tỏ ra trang nghiêm thành kính mà đùa cợt như bọn trẻ trâu: “Hương cháy lên tắt đi rồi lại cháy/ Các anh
cứ trẻ măng khi nhân loại đã già”. Liệt sĩ chết bao nhiêu năm rồi mà vẫn
chưa trưởng thành à? Câu thơ của Phạm Đức triết lý về cái tôi như kẻ dở hơi: “Mỗi ngày tôi luyện thành tôi mỗi ngày”.
Định nhại cụ Tố Hữu “Bốn nghìn năm ta lại
là ta…” à?
Đối
chiếu giữa thơ của các nhà thơ đã chết với thơ của các nhà thỏ đang sống bâu
quanh anh Thỉnh, phải chăng Hội Nhà Thỏ định dìm hàng nhà thơ lớn để được nổi
danh?
Tôi hình dung anh Thỉnh lại
sẽ nói, cảm nhận thơ hay dở là chủ quan cá nhân, phức tạp lắm, giống như anh
biện luận cho qua chuyện về tiếng Anh hiện đại vậy. Vậy thì để cho khách quan,
tôi dựa vào bình xét của một nhà thơ, chị Phạm Hiền Mây, người có nhiều bài thơ
vào hàng khá của thơ đương đại. Chị Mây cho rằng, trong số 50 câu thơ đó, chị
thích nhất câu thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và của giáo sư Lê Trí Viễn.
Thích là một chuyện, còn hay hay không phải thẩm định bằng phân tích khoa học.
Mà khoa học thì có đối chứng khách quan chứ không múa loạn cào cào như đạo diễn
điện ảnh Đỗ Minh Tuấn khi bình chữ “và”
trong cụm từ “núi và sông”, rằng nhờ
chữ “và” ấy mà núi và sông như múa
lên và quấn quýt trên vai nghệ sĩ.
Nguyễn Trọng Tạo có nhiều câu
thơ tài hoa, nhưng tôi dám chắc câu thơ: “Có
cái chớp mắt đã nghìn năm trôi” chẳng có gì hay. Anh định nói nghìn năm
trôi nhanh như cái chớp mắt hay định nói cái chớp mắt dài như nghìn năm? May
chăng cái nghĩa thứ hai trong phạm trù tình yêu thì có mới, chứ nghĩa thứ nhất
triết lý về thời gian thì xưa như quả đất. Mà tôi tin anh viết ở nghĩa thứ nhất
vì bài “Đồng dao cho người lớn” ấy
không có ý nào nói về tình yêu.
Câu
thơ của cụ Lê Trí Viễn thì tôi xin cúi đầu thành kính cáo lỗi cụ và những người
sùng tín người thầy của nhiều thế hệ thầy trước. Thoạt đầu tôi tưởng đó là câu
văn xuôi khi giảng văn cụ tếu táo cho vui: “Đêm
Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng, Nguyễn Du tắt bớt trăng và vặn thấp ngọn đèn”.
Không ngờ câu văn xuôi ấy nằm trong một bài thơ tứ tuyệt có tên “Đêm ấy, đêm này”:
Đêm Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng
Nguyễn Du tắt bớt trăng và vặn thấp ngọn
đèn
Anh đến với em đêm thần tiên ấy
Trăng với đèn chuếnh choáng hơi men.
Tôi
nói ngay với chị Phạm Hiền Mây, câu thơ này không đúng tinh thần Truyện Kiều và
nhuốm sự dâm ô phàm tục. Sự thật, trong văn bản Truyện Kiều, khi Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”,
trời có tối hơn cho Kiều lén lút trên đường tìm giai: “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”. Nhưng đến khi bước vào sân nhà,
lúc chàng Kim “Vội mừng làm lễ rước vào”
thì “Đài sen nối sáp song đào thêm hương”,
tức đèn được khêu lên to hơn, và trăng cũng sáng lên lồ lộ: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai
miệng một lời song song”. “Tắt bớt
trăng và vặn thấp ngọn đèn” hồi nào? Bịa, tán bừa. Đèn sáng, trăng soi như
vậy thì khi dù “Sóng tình dường đã xiêu
xiêu/ Xem trong ong bướm có chiều lả lơi” cũng không thể mần ăn chi được. Cho
nên Kiều mới nghiêm khắc với mình và với chàng Kim: “Đã cho vào bậc bố kinh/ Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”. Đèn sáng,
trăng soi cùng với lễ giáo đã tạo ra khoảng cách thanh lọc, biến chuyện trai
gái đời thường phàm tục thành tình yêu thánh thiện, sáng trong. Một quan hệ thẩm
mỹ như vậy làm sao có thể tưởng tượng dâm ô phàm tục? Thiên tài Nguyễn Du là
tạo nên cái nghịch lý khoảng cách gần mà xa của tình yêu, khác với Nguyễn Đình
Chiểu minh họa giáo điều lúc Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái
ta là phận trai”. Nếu cho rằng câu thơ của cụ Lê Trí Viễn hay thì có chăng
là câu cụ giễu cợt Nguyễn Du, nhưng xét đến cùng đó chỉ có thể là sự giễu cợt
vô duyên, không thể hay hơn bọn trẻ trâu giễu cợt cụ Nguyễn Đình Chiểu: “Vân Tiên ngồi dưới gốc môn/ Chờ cho trăng
lặn bóp lồw Nguyệt Nga”!
Cuối
cùng, tôi muốn nói đến sự ngu dốt và cẩu thả hết cỡ khi Hội Nhà Thỏ bứt râu ông
nọ cắm cằm bà kia ngay trong trường hợp Nguyễn Xuân Sanh với câu thơ:
Hoàng hôn ngựa cuốn cầu vồng lụa
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Thỉnh,
Thiều và cả ngàn hội viên Hội Nhà Thỏ trả lời cho tôi xem, các ông các bà đã
moi móc ở đâu ra cái câu thơ trên của Nguyễn Xuân Sanh?
Vểnh
tai thỏ lên tôi trả lời cho mà nghe nhé. Câu “Hoàng hôn ngựa cuốn cầu vồng lụa” nằm ở cuối bài “Nhạc rừng Việt Bắc”:
Gặp gỡ trời xanh trên núi cũ
Hoa cười Hà Nội sáng duyên mây
Hoàng hôn ngựa uốn cầu vồng lụa
Cũng hẹn về đây những phố đầy.
“Uốn” chứ không phải “cuốn”. Không
phải sai chính tả hay lỗi thằng đánh máy mà do dốt đặc về thơ, không biết hình
ảnh “Hoàng hôn ngựa uốn cầu vồng lụa”
là gì.
Không
có câu “Ngàn mây tràng giang buồn muôn
đời” nào cả ở bài “Nhạc rừng Việt Bắc”
mà chỉ có câu “Ngàn mày tràng giang buồn
muôn đời” nằm ở khổ thứ ba bài thơ “Buồn
xưa” nổi tiếng trong Xuân thu nhã tập:
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi.
Không
phải “mây” mà là “mày” (chân mày) trong hệ thống của trường liên tướng “vai”, “môi”, “ngực”, “da”. Đã dốt đặc
thơ tả thực mà đòi thưởng thức thơ tượng trưng mới ra nông nỗi này!
Tóm
lại, Hội Nhà Thỏ đã không chỉ ngu về từ loại - cú pháp - ngữ nghĩa tiếng Việt
(xem bài trước), dốt đặc về thơ ca, mà còn cố tình dìm hàng các nhà thơ bằng đủ
các trò chọn thơ dở, xuyên tạc, làm méo mó ngôn ngữ và thơ Việt để quảng bá ra
nước ngoài.
Một
đời dạy văn của tôi, tôi có mắng học sinh lười học nhưng chưa bao giờ dám chửi
học sinh ngu hay dốt, vì không chỉ phạm luật mà còn vì học sinh ngu hay dốt là
do thầy. Nhưng với Hội Nhà Thỏ mỗi năm tốn bao nhiêu tỉ đồng dân nuôi, tự hào
là tinh hoa văn hóa của dân tộc, tôi phải chửi thẳng!
Với
tư cách là một thầy dạy văn có trách nhiệm bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt
và đền thiêng của thi ca dân tộc, tôi đề nghị theo cách của triết gia Plato,
hãy trục xuất ngay lập tức Hội Nhà Thỏ ra khỏi vương quốc cộng hòa lý tưởng của
chúng ta!
Chu Mộng Long
………………….
50 CÂU THƠ THẢ TRONG NGÀY THƠ VIỆT NAM 2019
Trời trong như nước trăng
vằng vặc
Giấc mộng xuân tràn dưới bóng
hoa
Trần
Nhân Tông
Ba vạn quyển vàng vô dụng cả
Yêu dân chẳng trót, bạc phơ
đầu
Trần Nguyên Đán
Nỗi lòng đau đớn lạ thường
Mặt trời vàng úa vì thương
kiếp người
Nguyễn Du
Kim cổ miên man tình đất nước
Sao mình làm mãi một thi ông
Cao Bá Quát
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ, nẻo về thì
thương
Nguyễn Công Trứ
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn
trường
Bà
huyện Thanh Quan
Ngày ngắn, đêm dài, đêm lại
sáng
Đêm qua, ai có bạc đầu không?
Tản
Đà
Việc nước việc quân bàn đã dứt
Bên song tựa gối ngủ cùng
trăng
Hồ Chí Minh
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa
Thiên.
Tố Hữu
Hương xoan thơm mát chiều hè
thịnh
Hương tím hay là mộng của cây
Huy Cận
Cái không mất thường ở trong
nước mắt
Nguyễn
Đình Thi
Em xa vời thảng thốt một làn
mây
Việt
Phương
Bố mẹ chỉ có những kỷ niệm
Để lại sau lưng, như một suối
hương dài
Chính Hữu
Hoàng hôn ngựa cuốn cầu vồng
lụa
Ngàn mây tràng giang buồn
muôn đời
Nguyễn Xuân Sanh
Trưa đang đứng, còn đời mình
đang chín
Giọt nắng vàng như mật sáng
rưng rưng...
Bằng
Việt
Ai phiêu bạt nơi chân trời
góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi
đêm khuya?
Lưu Quang Vũ
Chỉ có thơ
Làm lẽ phải thầm lặng
Nguyễn Khoa Điềm
Dạ hương biến hóa tài tình
Hương bay một nẻo hoa rình
một nơi
Vũ Tú Nam
Tiếng ve đỏ mà trời xanh lắm
Những gay gắt hồn ta đằm thắm
Thanh Thảo
Bâng quơ một tiếng chim đêm
Mà lưu bao nỗi niềm riêng
ngang trời
Trần Nhuận Minh
Mây đi vắng trời xanh buồn
rộng rãi
Sông im dòng đọng nắng đứng
không trôi
Anh Thơ
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn
nắng cười
Vĩnh viễn anh yêu em, như yêu sự thật
Vĩnh viễn anh yêu em, như yêu sự thật
Xuân Diệu
Trăng non như một cánh diều
Trẻ con phất dối thả liều lên
mây
Nguyễn Bính
Nhà thơ như con ong biến trăm
hoa thành một mật
Một giọt mật thành, đòi vạn chuyến ong bay
Một giọt mật thành, đòi vạn chuyến ong bay
Chế Lan Viên
Lịch sử thế kỷ hai mươi là
lịch đường rừng
Thế kỷ mới chính là đường cao
tốc
Phạm Tiến Duật
Tôi cay đắng tôi tột cùng
hạnh phúc
Tôi cháy lên đâu phải để cho
mình
Tô Hà
Những đám mây đã chở con qua
dâu bể cuộc đời
Dương Kiều Minh
Dẫu ở đâu ta vẫn con của núi
Cảm ơn cây rừng giữ vía cho ta
Mai Liễu
Nâng lên sóng biển xô vào chén
Đặt xuống thì trăng lại rót
đầy
Nguyễn Ngọc Oánh
Cát đi mãi chẳng
thành đường
Tôi đi theo lối mẹ
thường hát ru
Nguyễn Hữu Quý
Trúc xanh đốt ngắn đốt dày
Đốt thời gian ở trên tay mình
cầm
Nguyễn Văn Hiếu
Trên cánh đồng của tôi mùa ấu
thơ đã hết
những luống rạ khô như một
giấc mơ vàng
Hồng Thanh Quang
Hương cháy lên tắt đi rồi lại
cháy
Các anh cứ trẻ măng khi nhân
loại đã già
Trần Cao Sơn
Có cái chớp mắt đã nghìn năm
trôi
Nguyễn Trọng Tạo
Đêm Thúy Kiều sang nhà Kim
Trọng
Nguyễn Du tắt bớt trăng và
vặn thấp ngọn đèn.
Lê Trí Viễn
Gió nổi lên rồi con tàu đang
chuyển động.
Lửa ở nơi không có dấu
chân người
Trần Anh Thái
Nhận khẩu súng, núi xa gần lại
Mỗi ụ mối, gốc cây cũng Tổ
quốc mất còn
Ngô Minh
Ta nuôi, nuôi trẻ trung trở
lại
Biển xanh tươi như một nỗi
đợi chờ
Trần Nhật Lam
Mắt quen nhìn thấy núi
Nên hồn xanh như rừng.
Tạ Văn Sỹ
Mỗi mỏm núi một người cầm súng
Y Phương
Cầu cho những lá đang xanh
Biết nương cuối rễ đầu cành
mà tươi.
Lệ Thu
Mỗi ngày tôi luyện thành tôi
mỗi ngày
Phạm Đức
Mầu hoa chẳng chịu lặng im
Lẫn vào sỏi đá thắp nghìn nén
hương
Nguyễn Việt Chiến
Thủy chung còn một xóm nghèo
Người về tìm những thương yêu
kiếp người
Lã Ngọc Khuê
Nhặt mưa nhặt nắng dãi dầu
Đem về mà ghép muôn mầu phận
ta
Đặng Cương Lăng
Nói thương người lính trong
tem
Chính là thương lắm người bên
cạnh mình
Đinh Thu Vân
Trời Thanh Hóa là cái vó
Mà lúc nào cũng vớt được tôi
lên
Văn Đắc
Áo dài bay cây đứng ngẩn bên
đường
Lê Thành Nghị
Những đường chỉ tay dằng dịt
các dòng sông
Cho con người về với cội nguồn
Từ Quốc Hoài
Tự tình yêu là nước mắt
Tự tình yêu là khúc ca
Phạm Hồ Thu
Rất hay !
Trả lờiXóa