BÀN TAY
Bàn tay
níu lấy bàn tay
Nửa vòng trái đất gió quay lệch
chiều
Tay buông lỏng ngón đìu hiu
Vực đêm cõng vết liêu xiêu
trăng mờ
Bàn tay
hong nến đợi chờ
Cơn mê chín muộn đêm ngờ nghệch
đêm
Phương người nắng lụa dịu êm
Phương ta tuyết lạnh buồn
nghiêng phố buồn
Bàn tay
nối khúc cầu vồng
Nhịp đưa võng nhịp trôi từng
dặm xa
Dẫu đà trắng tóc sương pha
Tay trơn còn chở
hương hoa
cuối
miền?
Thể Thơ
Lục
bát
Ngôn Ngữ Hình Tượng, Câu Cú
Ngôn
ngữ đẹp một cách mềm mại, hiền dịu nhưng cao sang, được tác giả chú tâm tuyển lựa
kỹ càng.
Câu
cú chắc, gọn ghẽ, không có những chữ vô tích sự, ngồi không ăn bám.
Tứ Thơ
Qua
hình ảnh "Bàn tay níu lấy bàn tay" thi sĩ tâm tình với người xưa,
cách nửa vòng trái đất, về nỗi nhớ thương da diết của mình.
Bố Cục
Bài
thơ có thể chia làm 3 đoạn:
1/ Bàn tay
níu
lấy bàn tay
Nửa
vòng trái đất gió quay lệch chiều
Tay
buông lỏng ngón đìu hiu
Vực
đêm cõng vết liêu xiêu trăng mờ
"Bàn
tay níu lấy bàn tay" - không muốn chia xa - nhưng vì "gió quay lệch
chiều" nên phải cách nhau nửa vòng trái đất. Đành buông tay để thấy đời từ
lúc ấy chỉ là vết ánh trăng mờ liêu xiêu giữa bóng đêm dầy đặc. Ôi! Phải chia
cách người yêu sao mà buồn thế.
2/ Bàn tay
hong
nến đợi chờ
Cơn
mê chín muộn đêm ngờ nghệch đêm
Phương
người nắng lụa dịu êm
Phương
ta tuyết lạnh buồn nghiêng phố buồn
Bởi
"Phương ta tuyết lạnh buồn nghiêng phố buồn" nên (lạnh và buồn) không
ngủ được, cứ đưa "Bằn tay hong nến đợi chờ"; chờ lâu quá, đến khi chợp
mắt thì "con mê chín muộn" giữa đêm trường "ngờ nghệch".
Hình tượng rất lạ và rất thơ.
3/ Bàn
tay
nối
khúc cầu vồng
Nhịp
đưa võng nhịp trôi từng dặm xa
Dẫu
đà trắng tóc sương pha
Tay
trơn còn chở
hương
hoa
cuối
miền?
Bàn
tay cong cong đưa lên như đang nối với bàn tay của "người ta" thành
khúc cầu vồng. Tiếc thay, mỗi nhịp "cầu vồng đưa võng" là mỗi nhịp
đưa người từng dặm cách xa ta. Cuối cùng đành cất tiếng hỏi bâng quơ:
"Dẫu
đà trắng tóc sương pha
Tay
trơn còn chở
hương
hoa
cuối
miền?"
Câu
hỏi bâng quơ đó cũng là mong ước của lòng ta.
Thật
ra phân đoạn chỉ là "thói quen" của người bình thơ để việc diễn giải
tứ thơ được dễ dàng mạch lạc chứ ở đây hình như tác giả không có ý đó.
Anh
mặc cho đôi tay mềm mại, uyển chuyển của mình và người xưa trình diễn "vũ
điệu tình yêu" trên "sân thơ" ngay từ bước nhảy đầu tiên cho đến
khi buông tay cúi chào khán giả ở "bến đỗ của tứ thơ". (Đúng ra nỗi
nhớ mới là tâm điểm của bài thơ nhưng phải chăng chính tình yêu là cội nguồn
phát sinh ra nỗi nhớ?)
Nói
khác đi, bài thơ nhất khí liền mạch, tứ thơ như một dòng suối nhỏ - chầm chậm
nhưng sinh động - chảy từ câu đầu đến câu cuối.
Tâm Thế Của Thi Sĩ
Thi
sĩ làm thơ trong tâm thế "Share feelings with them" (Chia sẻ tâm tình
với họ). Anh háo hức muốn bộc lộ tâm tình của mình với người yêu, và dĩ nhiên,
muốn chia sẻ điều này với độc giả. Ở đây không có chỗ để nói lý lẽ hay tranh luận
mà chỉ có chất tình bàng bạc trong từng con chữ.
Với
tâm thế này, nếu có thêm vài điều kiện khác nữa, cảm xúc tầng 3 rất dễ tích tụ
và lớn mạnh để tạo hồn thơ.
Kỹ Thuật Thơ
Kỹ
thuật lục bát nhuyễn, vần uyển chuyển (cả chính vận lẫn thông vận) vừa độ ngọt.
Có cả kiểu gieo vần tương đối mới:
Bàn
tay hong nến đợi chờ
"Cơn
mê chín muộn đêm ngờ nghệch đêm"
(gieo
vần ở chữ đầu của tĩnh từ, trạng từ... kép).
Một
chỗ nữa, theo tôi, gieo vần rất độc đáo là 2 câu:
Bàn
tay
nối
khúc cầu vồng
Nhịp
đưa võng nhịp trôi từng dặm xa
Cặp
vần "vồng từng" là thông vận xa. Không lạc vận nhưng vị ngọt của vần
loãng đi khiến âm thanh buông lơi vì giảm độ kết dính, rất tương hợp với câu
thơ "Nhịp đưa võng nhịp trôi từng dặm xa" - mỗi nhịp võng đưa là người
với ta lại thêm một dặm dài xa cách. (Dặm ở đây chỉ có ý nghĩa tượng trưng).
Không biết do "tay nghề" của thi sĩ hay nhờ may mắn. Nhưng dù gì đi nữa
cũng làm tăng giá trị của 2 câu thơ.
Dòng Âm Điệu
Có
dòng âm điệu của thơ lục bát êm êm, chậm rãi, thích hợp với tình cảm lãng mạn
và sâu lắng.
Nhịp Điệu
Nhịp
điệu của thơ lục bát - đều đều nhưng chưa tẻ nhạt vì bài thơ ngắn.
Dòng Cảm Xúc
Có
dòng cảm xúc nhưng rất yếu, vì 3 lý do:
1/
Tác giả phân tâm để tìm ngôn ngữ mới, hình tượng lạ nên tâm trạng háo hức lúc
làm thơ bị sụt giảm cường độ.
2/
Sức chảy của dòng âm điệu chầm chậm, rất nhẹ.
3/
Bài thơ ngắn, không có "sóng sau dồn sóng trước".
Cảm Xúc
Cảm
xúc tầng 1: Độc giả có khoái cảm mạnh nhờ ngôn ngữ, hình tượng đẹp, câu cú chắc
gọn.
Cảm
xúc tầng 2: Tứ thơ không chia nhỏ như những bài thơ khác mà là một khối thống
nhất, một "vũ điệu tình yêu" liên tục từ lúc mở màn cho đến khi kết
thúc. Điều này khiến cảm xúc tầng 2 - khoái cảm phát sinh từ thế trận của bài
thơ - rất mạnh.
Cảm
xúc tầng 3: Có hồn thơ nhưng chỉ phơn phớt nhẹ.
Vờn Bóng Giữa Sân
Huấn
Luyện Viên của đội bóng Bàn Tay không cho cầu thủ của mình vờn bóng giữa sân mà
ngay từ tiếng còi khai trận đã nhắm cầu môn đối phương thẳng tiến.
Như
đã nói ở trên, dòng suối thơ chảy không ngừng nghỉ từ khởi nguồn cho đến
"bến đỗ"
Tựa
Tựa
là "Chữ hoặc nhóm chữ nói lên cốt tủy của toàn bài". Tác giả đặt cái
tựa BÀN TAY có thể nói là khéo, hợp với bài thơ.
Hai Câu Kết
"Dẫu
đà trắng tóc sương pha
Tay
trơn còn chở
hương
hoa
cuối
miền?"
là
câu hỏi tạo cảm giác vui sướng cho "người bên kia" và lưu lại ấn tượng
đẹp trong lòng độc giả.
Khuyết Điểm
Chữ
"Vực" trong câu "Vực đêm cõng vết liêu xiêu trăng mờ" không
sai nhưng, theo tôi, hơi cầu kỳ nên không "dễ tiêu" làm dòng chảy của
tứ thơ hơi "khựng".
Cái Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ BÀN TAY:
1/
Có dòng chảy tứ thơ: Nhờ thơ nhất khí liền mạch.
2/
Có dòng âm điệu: Âm điệu của thể thơ lục bát.
3/
Nhịp điệu đều đều của thơ lục bát nhưng chưa tẻ nhạt, nhàm chán là nhờ bài thơ
ngắn.
4/
Có dòng cảm xúc nhưng rất yếu vì không có "sóng sau dồn sóng trước"
Tác
giả có được Cái Nền Kỹ Thuật này là nhờ may mắn chọn thể thơ lục bát. Nhưng thơ
lục bát là con dao hai lưỡi: Ngắn thì thiếu hơi, không đủ sức; dài quá thì ầu
ơ, nhàm chán vần. Hơn nữa, do thơ lục bát có quá nhiều vần bằng nên dòng cảm
xúc yếu, cực kỳ khó để đẩy thi sĩ đến chỗ "lạc thần trí", "cảm
xúc sôi lên phủ mờ lý trí" cho lời thơ hoàn toàn là tiếng lòng chân thật.
Kết Luận Chung Cuộc
Dù
sao thì BÀN TAY cũng là bài thơ thành công về khá nhiều mặt. Chỉ riêng nét đẹp
văn chương nổi bật từ ngôn ngữ, hình tượng, câu cú, thế trận đã giúp bài thơ có
một chỗ đứng không đến nỗi tệ trong vườn thơ.
Tuy
hồn thơ chỉ phơn phớt nhẹ và đường đến Bến Bờ Thi Ca vẫn còn xa nhưng nhà thơ
Lê Hữu Minh Toán đã đi đúng hướng. Hy vọng kinh nghiệm ở đây sẽ giúp anh vững
vàng hơn. Không nói xa vời mà chỉ cần trong những bài thơ sẽ viết của anh hồn
thơ ngày càng cao hơn, mạnh hơn hồn thơ trong thi phẩm BÀN TAY là những người
yêu thơ chúng tôi cũng đã vui, vui lắm.
Chúc
anh ngày càng hứng thú và thành công trên sân chơi thi ca.
Phạm
Đức Nhì
phamnhibinhtho.blogspot.com
…………….
CHÚ
THÍCH:
Cái
Nền Kỹ Thuật Của Bài Thơ Không Phải Lục Bát:
1/
Nhất khí liền mạch để có dòng chảy tứ thơ.
2/
Vần cần đủ ngọt, cước vận lên tiếp là chính để có dòng âm điệu.
(Có
dòng chảy tứ thơ và dòng âm điệu sẽ có dòng cảm xúc).
3/
Nhịp điệu: Thay đổi số chữ trong câu để nhịp điệu lúc khoan lúc nhặt, uyển chuyển,
sinh động, không đều đều tẻ nhạt.
4/
Ngôn ngữ, hình tượng dễ tiêu (hiểu cảm cùng một lúc), tránh mô gò cản đường.
5/
Không vờn bóng giữa sân.
6/
Đủ dài để có "sóng sau dồn sóng trước" tạo cao trào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét