Nhà thơ Phạm Công Trứ
Tôi
thuộc thơ Phạm Công Trứ từ khi chưa gặp anh. Những ngày nhập ngũ đầu thập kỷ
chín mươi đồng đội nhờ viết thư tình toàn phải lấy thơ Nguyễn Công Trứ độn vào.
Kiểu như:
Cỏ
may giăng kín triền đê
Một
đêm trăng sáng cỏ về cùng tôi
Ngỡ
là gỡ cỏ mà chơi
Ai
ngờ duyên số thề bồi với nhau...
Thuở
ấy tôi mới lên mười
Còn
em lên bảy theo tôi cả ngày
Quần
em dệt kín bông may
Áo
tôi đứt cúc mực dây tím bầm
Tuổi
thơ chân đất đầu trần
Từ
trong lấm láp em thầm lớn lên
Bây
giờ xinh đẹp là em
(Lời thề cỏ may)
Thế
mà vô khối binh nhất binh nhì xuất thân chân quê chính hãng cưa đổ gái làng chỉ
qua những lá thư cỏ may cầu âu như thế. Đương nhiên những câu hay nhất tôi dành
riêng cho thư của mình. Bằng chứng gần ba mươi năm sau, cô gái cỏ may đã cùng
tôi dắt cậu con rạng rỡ trong đám cưới để mình được lên ông lên bà. Đúng thật
là:
Non
xanh biển cả là nhà
Đồng
bằng là ruộng, biển là ao con
Vần
xoay thế sự vuông tròn
Em
ơi ta đã lên khôn bao giờ
(thơ Nguyễn Anh Nông).
Ít
ai ngờ Phạm Công Trứ từng là lính trận ở Trường Sơn từ năm 1973. Giữa nơi bom đạn
mà thơ Phạm Công Trứ đã rất khác người:
Tiếng
chim rừng cũng ướt nhòe đứt nối
Lâu
lắm rồi suối thèm được trăng soi...
Mặt
em? Không, mặt mùa xuân
Tiếng
em? Không, tiếng lắng ngân lưng trời...
đã
dự báo một nét tài hoa độc đáo. Quả thực tiếp đó là những vần thơ sinh động:
Tuổi
ấu thơ trôi nhanh như bay
Chúng
tôi lớn lên lúc nào không biết
Rãnh
nước sau nhà thoắt thành nhỏ hẹp
Thuyền
lá tre không chở nổi tâm hồn...
Phạm
Công Trứ của những ngày lãng mạn tuy giọng thơ còn hòa với đồng ca của những
người viết khác nhưng cũng đã le lói một cái gì đó khang khác:
Đường
làng cây sóng hàng đôi
Tháng
năm vương cỏ, tháng mười vương rơm
Tháng
hai xuân tím mặt đường
Em
đi gánh nước hoa vương tóc dài...
Nhưng
đến khi Lời thề cỏ may ra đời đã là một Phạm Công Trứ rất khác và sau này càng
đặc biệt với Cỏ may thi tập; Lời thề cỏ may 1 (Nxb Thanh niên, 1990); Lời thề cỏ
mày 2 (Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1993); Lời thề cỏ may 3 (Nxb Văn hóa -
Thông tin, 1996); Phồn thi... đã khẳng định một vị trí không thể thay thế trong
thơ sau Đổi mới 1986.
Em
đi để lại chuỗi cười
Trong
tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng
vàng đêm ấy bờ đê
Có
người ngồi gỡ lời thề cỏ may...
(Lời thề cỏ may);
Mưa
xuân từ bữa ngại bay
Hoa
xoan nát dưới gót giày ngõ quê
Em
ra thành phố không về
Mẹ
treo khung cửi dứt nghề tằm dâu
(Mưa xuân từ đó ngại bay);
Lối
xưa xe ngựa thâm u
Lối
nay xe cúp vù vù khoe sang
Nền
xưa lầu hạc gác vàng
Nền
nay siêu thị chắn ngang mây trời...
đã
cho thấy một phong cách rất riêng Phạm Công Trứ. Tưng tửng mà rất dằn vặt ngẫm
ngợi. Câu chữ chơi chơi mà nhói buốt đánh thức tim người. Chính ông cũng đã tự
họa mình theo giọng điệu ấy:
Tình
tôi một đống rơm chiêm
Em
đùa xòe một que diêm ném vào
Bén
rơm lửa bốc ào ào
Chút
tro còn lại rõ trao cho trời
Giận
thân những muốn chửi đời
Đến
khi ngửa mặt lên rồi lại im...
thì
rõ ràng là vừa hài hước vừa chua cay lắm vậy. Thơ chính vì thế mà có ích chăng?
Mà có người đọc chăng? Và vì như vậy mà Phạm Công Trứ ở những năm chín mươi về
sau danh nổi như cồn.
Phạm
Công Trứ ngoài đời cũng luôn ngẫm ngợi như trong thơ. Anh như một triết nhân với
rất nhiều đúc kết hữu ích trong cuộc đời. Thông minh cỡ Trần Đăng Khoa nhiều
lúc gặp bí đều phải hỏi kế sách ông anh họ Phạm. Mặc dù Trần Đăng Khoa đã
“phán” về Phạm Công Trứ rất ỡm ờ như sau: “Đọc Phạm Công Trứ vẫn nhớ đến Nguyễn
Bính. Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu trải giữa
làng văn rồi”.
Quả
đúng là cung cách Trần Đăng Khoa.
Tuy
nhiên, Trần Đăng Khoa là Trần Đăng Khoa mà Phạm Công Trứ là Phạm Công Trứ,
không thể đánh đồng nước đôi được. Thơ Phạm Công Trứ vừa đa dạng vừa đa thanh với
giọng giễu nhại đậm chất đồng quê nhưng cũng không ít bài ở khu vực hàn lâm
truyền thống. Thơ Phạm Công Trứ có lúc phảng phất chất hiền triết dù câu từ dân
dã, ví như:
Hội
tan thần phật về trời
Cỏ
may giập nát gượng ngồi dần lên
Chân
nhang que đứng, que xiên
Gió
lăn xác lá quét trên sân chùa...
Là
hoa thì nở
Hoa
nào có biết
Đã nở là tàn
- Là sông thì chảy
Sông
đâu có biết
Đã chảy là tan
- Là người thì sống
Biết
sống là già
Biết
già là chết
Biết
chết là hết...
thì
quả thực Phạm Công Trứ đã giản dị được sự phức tạp, đã gọn ghẽ được dằng dặc kiếp
người sinh tử tồn vong một cách tài tình giản phác. Đó chính là tài thơ vậy.
Phạm
Công Trứ còn có một biệt tài là viết chân dung văn học về bè bạn, nhất là lớp
nhà văn đàn anh và giới cầm bút đương thời. Sự hóm hỉnh hồn nhiên và tư duy triết
học của ông đã ở một độ thâm sâu nên câu chữ Phạm Công Trứ dùng rất nhàn nhã.
Có những chữ khi chưa đủ công lực mà cố dùng sẽ phản lại mình ngay. Điều này Phạm
Công Trứ rất biết khi anh viết câu thơ Xưa nay hai nửa mặt đời/ Vừa lao lên trước
vừa lùi về sau. Và từ bình diện ấy, Phạm Công Trứ đã luôn đặt sự công bằng, sự
thật, nhất là bản chất của các vấn đề lên hàng đầu. Chính bởi vậy, các chân
dung ông viết về bè bạn vừa thấm đẫm nhân tình vừa khắc cốt được những điều
chính yếu.
Phạm
Công Trứ điêu luyện và nằm lòng bạn đọc chính là ở thể thơ lục bát. Lục bát của
ông vừa nhuần nhuyễn tài tình nhưng nhiều lúc rất đột ngột tạo ra những khúc
ngoặt khiến người đọc trầm trồ. Ví như:
Mướp
tàn sen cũng đi tu
Lá
tre đã thả một mùa heo may
Con
sông không ốm mà gầy
Mắt
em chưa tối đã đầy hoàng hôn
(Thu cạn);
Sen
tàn hạ xuống đáy ao
Heo
may dắt cúc ra chào mùa thu
Mùa
thu khoác áo sương mù
Đầu
đội mây trắng ngồi tu nắng vàng
(Thu cúc)...
mà
bỗng dưng lém lỉnh đột ngột như trêu ngươi mà vẫn rất duyên tình:
Trời
lồng nước, núi liền mây
Lờ
mờ sương sớm, ngất ngây hương tình
Trên
đò các cụ tụng kinh
Chúng
mình trẻ quá, chúng mình tụng nhau
(Đường vào Chùa Hương)...
thì rõ ràng là đa thanh sắc
đa tài tình lắm.
Ấy
vậy mà cũng có lúc Phạm Công Trứ đặt ra những câu hỏi về mình, về thơ của chính
mình:
Trăng
vàng con của đồng quê
Thơ
tôi con của lời thề đẻ rơi
Phố
phường ngoảnh mặt thơ tôi
Tôi
mà chết sớm ai nuôi trăng vàng...
đã khiến người đọc bâng
khuâng.
Nhà
thơ Phạm Công Trứ sinh năm 1953, quê ở xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông là Phó giáo sư, Tiến sĩ Luật học, từng làm tại báo Pháp luật và hiện nay đã
nghỉ hưu. Đối với thơ, ông đã đủ mọi riêng - chung với những thành tựu được văn
giới ghi nhận. Ông như một nét riêng đặc biệt trong làng thơ, nhất là thơ lục
bát Việt Nam. Ông với Đồng Đức Bốn như một cặp song kiếm âm dương bát quái với
kiếm khí khiến người đời lắm lúc phải lạnh mình của họ Đồng và nhất là phải suy
nghĩ từ những vần thơ đậm chất uy mua nhưng vô cùng ám ảnh của họ Phạm. Đọc vào
thơ càng thấy tin ở người, niềm tin nhỏ thôi nhưng bền chắc. Có lẽ nào chúng ta
sống mà lại chẳng tin nhau? Thì niềm tin ấy thật hữu ích biết bao trong đời sống.
Viết
đến đây, tôi bỗng chợt băn khoăn khi thấy nhà thơ họ Phạm trùng tên với Tể tướng
lừng danh nhà Lê Trung Hưng cũng là một nhà thơ Phạm Công Trứ. Cuộc đời chìm nổi
của Phạm Tể tướng - một trong những vị đại thần tài năng làm nên sự nghiệp
Trung Hưng của nhà Lê tới tước vị Quốc lão, Thái Bảo Yên Quận công từng đương
chức Trưởng Lục bộ sự (Thượng thư của sáu bộ), từng năm lần Nam chinh kiến công
lập nghiệp rạng danh đất Bắc trời Nam cho tới tận hôm nay. Chẳng hiểu cơn cớ
hay duyên phận gì ông lại trùng tên bậc đại lão đại thần hiển hách. Điều này
chưa thấy nhà thơ hậu bối Phạm Công Trứ tỏ bày ở đâu song tôi dự cảm chính tuổi
tên đó đã luôn giúp hậu bối họ Phạm phải tự giữ nghiêm mình trong đời sống và
trong sáng tác. Phải thế chăng mà từ nơi bom đạn Trường Sơn trở về, rời áo lính
sang Nga bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Luật rồi cứ thế một mạch khơi dòng
thơ thuần hậu duyên quê tới hôm nay. Ẩn tàng phía sau đó hẳn phải là sự mách nước,
vun đắp của tiền nhân cũng là sự tri ân của chính ông với tổ tông nguồn cội.
Không phải vô tình mà Phạm Công Trứ từng viết trong tự bạch Tổng tập nhà văn
quân đội rằng: “Với tôi, thơ là hạt sương đêm thở dài. Thấm nỗi buồn muôn thuở
của con người của đất đai...” Đó cũng là bộc bạch chân tình đúng với phẩm chất
của nhà thơ họ Phạm.
Xin
được kết thúc bài viết nhỏ về ông với một bài thơ lính tráng ông làm cách đây
đã mấy chục năm có tên Khoảng trời tuổi thơ:
Rủ
nhau chơi tập tầm vông “Tay nào có?”, “tay nào không?”, để rồi/ “- Chịu thôi!”
Em
gỡ tay tôi
Mắt
cười trong suốt khoảng trời tuổi thơ
Khoảng
trời chợt nắng, chợt mưa
Chập
chờn cánh bướm, thấp thưa cánh chuồn
Cái
năm em chớm biết buồn
Cũng
là năm phía chiến trường giục tôi...
Gặp
em, em gặp hôm rồi
Tuổi
ba mươi sống lại thời tầm vông
“Tay
nào có?”, “tay nào không?”
Nựng
con, em giấu vào lòng... lời ru.
PHÙNG
VĂN KHAI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét