THỜI
ÁO LÍNH : Hồi ký / Trần Mỹ Giống. – H. : Nxb. Quân đội nhân dân, 2018. – 190
tr. ; 21 cm. – Xuất bản lần thứ 2 năm 2019.
Năm
2018 “Thời áo lính” được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in bao cấp, phát hành
cho các thư viện trong Hệ thống Thư viện Quân đội.
Năm
2019, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in “Thời áo lính” lần thứ 2 theo “đơn đặt
hàng của nhà nước”, phát hành cho các thư viện cấp Bộ, Viện, Trường đại học, quốc
gia, tỉnh thành…
Sách được xuất bản hai lần đều cấp cho các thư viện mà không
bán. Tác giả xin được nhận nhuận bút bằng sách tặng biếu bạn bè.
“Thời áo lính” được tặng Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lương
Thế Vinh lần thứ VIII (2016 – 2020).
Nội dung hồi ký có hai phần:
Phần 1:
- Gia đình.
-
Đi học.
- Vui duyên mới không quên nhiệm vụ.
- Từ Côn Sơn đến Thạch Hãn.
- Những mảnh ký ức về đồng đội.
- Lên chốt.
- Trận Cửa Việt.
- Học sĩ quan lục quân.
- Tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc.
- Chuyển ngành.
Phần 2:
- Trở về Trường đại học.
- Về với đời thường.
- Công tác Thư viện.
- Tổ ấm gia đình.
- Lý lịch nghệ thuật.
Cảm ơn Nxb. Quân đội nhân dân đã xuất bản 2 lần và có bài giới
thiệu “Thời áo lính” trong mục “Sách hay nên đọc”. Cảm ơn nhà thơ đại tá Trần
Văn Thuyên đồng cảm qua bài giới thiệu “Thương bạn”. Cảm ơn đồng nghiệp Thùy
Nhung cán bộ Thư viện tỉnh Vĩnh Long đã viết bài giới thiệu “Thời áo lính” trên
trang Thư viện Vĩnh Long…
Xin
chọn đăng lại bài giới thiệu trên Tạp chí Văn Nhân của tác giả Tống Thị Hạnh -
cán bộ Thư viện tỉnh Nam Định về cuốn sách này.
THỜI ÁO LÍNH - MỘT HỒI KÝ TRUNG THỰC
(Thời
áo lính: Hồi ký / Trần Mỹ Giống. - H.: Quân đội nhân dân, 2019)
Tống
Thị Hạnh
Tôi
được biết về cuốn “Thời áo lính” của bác Trần Mỹ Giống khi còn là những trang bản
thảo với gần 40 nghìn con chữ. Người tiền
bối đáng kính của chúng tôi, ở tuổi 70, vẫn cặm cụi bên chiếc máy tính cũ kỹ.
Miệt mài và nhẫn nại. Dốc tâm, dồn lực. Viết để nhìn lại, để kết nối, xâu chuỗi
những sự kiện đời mình. Để giãi bày. Để yêu thương hơn những buồn - vui, sướng
- khổ. Và cũng để nguôi ngoai những nhớ thương bạn bè, đồng đội của một thời
xưa cũ.
Sách
được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân biên tập gọn ghẽ trong 190 trang in, khổ
14,5 x 20,5 cm, ấn hành năm 2018, đúng vào dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam (22/12), phát hành cho các thư viện trong hệ thống thư viện
quân đội. Năm 2019, cuốn Thời áo lính của bác lại được nhà xuất bản Quân đội
nhân dân xuất bản lần hai số lượng ngàn cuốn theo đơn đặt hàng của nhà nước
phát hành trong các thư viện thuộc hệ thống thư viện công cộng nhà nước. Với
bác - một người cựu chiến binh, đó là mốc dấu thực sự ý nghĩa.
Tôi
đã đọc “Thời áo lính” trong một đêm. Bằng tâm thế của một độc giả. Vẫn vẹn
nguyên nỗi xúc động khi chứng kiến thăng - trầm trong cuộc đời người lính. Vẫn
bị cuốn hút bởi những câu chuyện ngỡ đã thân quen. Những câu chuyện ấy, phần
nhiều tôi đã được nghe, hoặc được chứng kiến. Vì với gia đình tôi, bác vốn là
người gần gũi, gắn bó. Còn với tôi, bác là bậc tiền bối đáng kính, đã dìu dắt
tôi từ những ngày chập chững vào nghề.
Cuốn
sách chia hai phần: Phần một tái hiện cuộc sống gian khổ ác liệt đầy biến cố của
tác giả và đồng đội những năm tháng chiến đấu ở Quảng Trị và Lạng Sơn từ 1971 đến
1980. Phần hai viết về cuộc sống đời thường vượt lên khó khăn giữ vững phẩm chất
anh bộ đội cụ Hồ… Xoay quanh đó, là chuyện quê hương, gia đình, bè bạn, chuyện
học hành, chuyện công việc, với muôn mặt đời thường, với ngổn ngang nhân tình
thế thái.
Tháng
9 năm 1971, khi đang là sinh viên năm thứ 4 Đại học Thư viện, bác nhập ngũ biên
chế tại đại đội 10 Tiểu đoàn 19 Trung đoàn 101 Sư đoàn 325. Với bác “Đi bộ đội
như một việc tất nhiên phải thế” dù biết rõ “những năm 1970 - 1972, đi bộ đội
vào Nam chiến đấu rất ít hy vọng có ngày trở về”.
Qua
thời gian huấn luyện về chiến thuật, chiến lược, kỹ thuật sử dụng vũ khí và tác
chiến, Trung đoàn được lệnh đi Nam. Hai tháng hành quân từ núi Côn Sơn (Chí
Linh - Hải Dương) tới Quảng Trị đã thực sự gian khổ. “Sự gian khổ nhiều khi đến
cơ cực với người gầy yếu “gió thổi bay” như bác. Nhưng con đường trước mắt còn
ác liệt bội phần. “Đó là chiến trường thực thụ, là lò lửa khủng khiếp của bom đạn,
đó là sự hy sinh, mất mát để giành lấy độc lập, tự do và cuộc sống hòa bình của
dân tộc” (Tr. 63)…
Lật
giở từng trang sách, trước mắt tôi hiển hiện hình ảnh những người lính áo quần
bám đầy bụi đất khói súng, răng trắng ởn, mắt lấp lóe ánh đèn dù, tóc bết vào
thái dương, mồ hôi chảy giọt trên khuôn mặt xạm đen khói súng, mấy giọt rớt
trúng nòng súng sủi lên rồi biến mất… Chỉ mấy dòng mô tả như thế đã làm người đọc
cảm nhận được cuộc chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972 của những người lính ác liệt
biết chừng nào.
Khi
viết hồi ký, bác chỉ mong giãi bày những gì hiện hữu trong đời mình, không tham
vọng đại diện cho “người của một thời”, nhưng sự khốc liệt của chiến tranh vẫn
hiện lên rõ nét qua những cảm xúc riêng tư của người lính chiến: những khắc khoải
cách xa, những lo âu trĩu nặng, có tinh thần phơi phới, có cả nỗi buồn và nỗi
hoang mang. Người đọc thấy thấm thía nỗi buồn chiến tranh không chỉ qua những
trận đánh, những đạn bom, chết chóc, hy sinh mà qua cả sự gấp gáp, vội vàng của
“đám cưới thời chiến” trước khi người lính đi B; qua câu chuyện người mẹ dáng
“gầy quắt queo, bước liêu xiêu” vẫn đủ sức đi bộ hàng trăm cây số lên nơi con
đóng quân. Người mẹ ấy, suốt quãng thời gian con chiến đấu ở Quảng Trị, “đã đi
kêu cầu, cúng bái ở nhiều chùa, đốt cơ man là lính giấy để “bảo vệ” thằng con cả
của bà”.
Rời
cuộc chiến, với những vinh quang và cả thất vọng, mất mát… người lính ấy lại cặm
cụi học hành, lại nhiệt tâm tận hiến trong công việc, lại bươn chải mưu sinh.
Có niềm vui. Có những ẩn ức, chất chứa. Nhưng điều dễ nhận thấy từ những trải
nghiệm thấm thía, những suy tư sâu lắng của bác là bản lĩnh và tâm thế của một
người lính vẫn sáng lên trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Cuốn
hồi ký được viết theo mạch chảy thời gian, xen kẽ những đoạn hồi ức trong hồi ức,
với lối trần thuật giản dị, thành thực. Bác cứ nhẩn nha kể hết chuyện này đến
chuyện khác. Và những cảnh đời, những biến cố, những cảm xúc cứ thế đi ra từ
cõi nhớ, vẹn nguyên, không chút màu mè tô vẽ, yêu - ghét thế nào bộc lộ cả ra.
Cách kể thật thà, không né tránh, giấu giếm của bác có thể làm phật lòng vài
người, cũng có thể làm chạnh lòng nhiều người vì chạm tới những điều rất đỗi
riêng tư…
Tôi
thực sự khâm phục “sức” viết và “sức” nhớ
của bác. Bác viết nhanh, gần như không phải đắn đo, chỉnh trang câu chữ. Ở tuổi
gần 70, tự nhận “trí não già nua”, lại thêm những di chứng của “nhiều lần sức
ép bom B52” làm bác “suy nhược thần kinh kéo dài nhiều năm sau” bác vẫn nhớ
rành rẽ từng biến cố, từng mốc dấu thời gian, từng tên người… tỉ mỉ đến chi tiết.
Người ta có thể dễ dàng nhận ra những dấu ấn nghề - nghiệp in đậm trong từng
trang hồi ký: nét tư duy hệ thống, mạch lạc ở người làm công tác thư viện, và cả
sự cẩn trọng, cặn kẽ, chu toàn của một người làm nghiên cứu.
Điều
đọng lại trong tôi, khi đọc cuốn hồi ký là tình cảm gia đình ấm áp. Từ những
chuyện mang màu sắc tâm linh về người “mẹ già” đã mất; đến chuyện về “người u”
bằng thứ tình yêu vĩ đại mình mà trở thành lá chắn cho con vượt qua mưa bom bão
đạn. Bởi “Những năm ấy đi chiến đấu là vào giai đoạn khốc liệt. Nói dại, nếu
tôi chết, hẳn bà khó sống được. Tôi tự nhủ: Phải sống, phải hy vọng, dù có mong
manh”… Rồi tình yêu bền bỉ theo thời gian của bác và người vợ hiền - vốn là đồng
môn, đồng nghiệp; những sẻ chia, đùm bọc của anh chị em trong nhà; niềm tự hào
khó giấu khi bác nhắc đến con, đến cháu… Cái mạch nguồn trong trẻo ấy, lặng lẽ
hiện hữu giữa mảng sáng - tối đan xen, nhân lên niềm vui, và xoa dịu những muộn
phiền. Suy cho cùng, cuộc sống có thế nào, với
người lính, được sống, được trở về với gia đình… vốn dĩ đã là niềm hạnh
phúc!
Thời
áo lính, một cuốn hồi ký trung thực, sự kiện và suy tư như thế nào viết đúng
như thế. Có lẽ đây là điều được người đọc trân trọng nhất đối với cuốn sách và
tác giả.
Tống Thị Hạnh
Thư viện tỉnh Nam Định
Điện thoại: 0975.199.195
Nguồn:
Tạp chí Văn Nhân. – Số 133. – 2020. – Tháng
9 & 10. – Tr. 39 – 40.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét