Mừng Nhà văn Nguyễn Khôi sinh nhật tuổi 84 tuổi (26/12/1938 - 26/12/2021), trân trọng trích giới thiệu tác phẩm “Bắc Ninh thi thoại” của tác giả…
PHẦN I: NỘI BIÊN
Bài Thứ 1 – SUY NGHĨ VỀ THƠ
Thơ
– là một bài văn gồm những câu ngắn, dài (có vần hoặc không vần) có thanh âm từ
điệu của một thứ tiếng mà nhà thơ sáng tác ra, thường theo những niêm luật nhất
định. Người ta thường hay nói “thơ ca”, nhưng cũng cần phân biệt sự khác nhau
giữa thơ và ca. Nếu Ca diễn tấu ca ngợi một cái đẹp thì Thơ với ý tứ sâu xa, với
cấu trúc độc đáo được kết tinh từ cái đẹp đó làm cho mọi người ngây ngất chiêm
ngưỡng vẻ đẹp huyền diệu tâm linh rất thơ đó.
Có nhiều cách định nghĩa về thơ:
–
Thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tim. Một bài thơ là một cõi thế giới.
–
Thơ là một thể loại văn học sử dụng vần điệu, hình ảnh, tình cảm, để thể hiện một
tư tưởng nào đó.
–
Thơ là tiếng lòng, là sự giãi bày (tiếng nói độc bạch) để diễn tả nỗi oán than,
một niềm vui, một nỗi nhớ, một suy tưởng (còn tiểu thuyết là đối thoại, nhiều
tiếng nói, nhiều bè, hoà nhịp với nhau, cãi nhau, đối chọi nhau)
–
Thơ là tiếng vọng của tâm hồn (là bữa tiệc của tâm hồn).
–
Thơ là tiếng hát, nhà thơ là người hát rong. Hát lên niềm khao khát cuộc sống,
tình yêu, tự do. Người làm thơ trước tiên phải có cảm hứng mãnh liệt (thi hứng)
và phải biết làm thơ theo đúng nghĩa của nó (vì thơ là văn bản được tổ chức bằng
nhịp điệu của ngôn từ) tức là phải nắm những đặc trưng (thi pháp) của thơ để mà
vận dụng khi sáng tác. Đó là về:
+
Cấu trúc trùng điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa)
+
Kiến trúc đầy âm thanh
+
Nhiều khoảng trắng trên không gian in thơ (nhằm tạo ra cách nói “Thơ một chút”
– thơ kỵ lộ liễu - để thơ có nhiều khoảng “lặng” tạo ngân vang cái “ý chưa dứt
làm day dứt lòng người”.
+
Thơ phái có chất nhạc tràn đầy và cần cái ảo đan xen cái thục (sản phẩm của trí
tưởng tượng) trong thơ.
Thơ
Tàu trọng ý tại ngôn ngoại, còn Thơ Việt ta là tình thì kín mà ý thì sang.
Tâm
hồn là hoa, còn thơ là quả. Hoa đẹp nhưng chưa chắc đã có hương thơm, cũng như
tâm hồn mãi nhưng chưa chắc thơ đã hay.
Thơ
chắp cánh cho con người bay bổng, do đó mới gọi là “hồn thơ” là vậy. Tức cảnh
sinh tình tạo thi hứng cho nguồn thơ dào dạt tuôn trào như suối, như sông là thế.
Thơ
không phải của riêng ai, nhưng không phải ai làm thơ cũng thành nhà thơ. Mỗi
nhà thơ có phong cách ý vị riêng. Thơ chí là lều lán tới nhà và lâu đài, ngọn
núi… và dù chỉ một vài bài, thậm chí chỉ một câu cũng tạo được đỉnh cao, dấu ấn
của thời đại và khắc sâu vào hồn người – thơ bất tử là vậy
Xứ
Bắc Ninh ta: Người làm thơ (so với xứ khác) không nhiều nhưng nhà thơ có tên tuổi
thì lại không ít.
Đất
Bắc Ninh hẹp (hiện nay bé hơn cả thủ đô Hà Nội), nhưng là nơi địa linh, nhân kiệt.
Là lỵ sở đầu tiên của quận Giao Chỉ, nơi sinh ra Lý Công Uẩn – người quyết định
ban Chiếu dời Đô về thành Đại La, lập nên kinh đô Thăng Long, nghìn năm văn hiến.
Từ vị trạng nguyên đầu tiên của nước Nam ta (Lê Văn Thịnh), những thi sỹ tiên
khởi với những văn ánh thơ đẹp, bất hủ của nước Đại Việt ta thì nhiều đấng tài
hoa ấy được sinh ra ở đất Bắc Ninh - Kinh Bắc này.
Làm
thơ là làm việc của riêng mình. Viết Thi Thoại là làm việc chung cho mình và
cho mọi người... Bắc Ninh Kinh Bắc ta, xưa nay chưa có Thi xã và cũng chưa có
ai làm Thi Thoại.
Kẻ
hậu sinh Nguyễn Khôi ở làng Đình Bảng này cúi xin các bậc tiền nhân ông cha thủa
trước, nghiêng mình xin phép các anh các chị thi nhân kẻ sỹ đương thời của tỉnh
nhà, mạo muội căm cụi viết một quyển Bắc Ninh Thi Thoại gọi là điểm dẫn, sưu tầm,
hệ thống lại, có đôi lời cảm nhận (theo thiển ý) để góp vui cho nhũng người đồng
hương trong lúc vui chơi giải trí khi ly rượu, chén trà “nghênh phong thưởng
nguyệt” với hồn quê Kinh Bắc, sâu sắc tình đời. Có điều gì thô lậu mong bạn đọc
quê hương lượng thứ.
Bài Thứ 2: THƠ VẠN HẠNH
Thơ
là tiếng lòng tự nhiên bột phát ra (ứng khẩu hoặc viết nên lời) đó là một cách
hay tự nhiên và cũng dễ đạt ý tại ngôn ngoại, có người gọi đó là cách viết vô
thức, xuất thần. Một cách hay khác là nguòi viết có chú ý, sáng tác có ý tưởng,
mục đích hẳn hoi (có khi viết theo “đơn đặt hàng”) lấy tài đức tâm. Cũng không
quên trường hợp toàn bích.
Vạn
Hạnh thiền sư (?-1018) người làng Cổ Pháp (Đình Bảng – Từ Sơn – Bắc Ninh) tương
truyền ông là cha đẻ ra triều Lý (1009-1225). Thủa nhỏ Vạn Hạnh thông minh khác
thường học thông tam giáo theo học Đạo với Thiền ông đạo giả ở chùa Lục Tổ
hương Dịch Bảng. Sau đó Thiền Sư Vạn Hạnh chuyên tâm tu tập kinh Tổng tri tam
ma địa, phép thiền định của Phật Giáo để giữ thiện pháp.
Thiền
sư được vua Lê Đại hành đặc biệt tôn kính. Bấy giờ được coi là nhà tiên tri,
thơ văn lời nói được coi như sấm ngữ.
Ví
dụ trước trận đánh Tống năm 980, vua hỏi, sư nói:“chỉ trong Ba Bảy (21) ngày giặc
tất lui”. Quả nhiên đúng một tháng sau giặc đại bại. Khi phía Nam nước ta có giặc
Chiêm, vua hỏi, sư nói:“nên đi ngay sẽ thắng”. Quả nhiên thắng lớn.
Sau
Lê Ngoạ Triều lên ngôi, tàn ngược độc ác, trời người đều giận. Lúc ấy ở châu Cổ
Pháp (sau đổi là Thiên Đức) có Lý Công Uẩn đang làm Thân Vệ trong triều. Lý
Công Uẩn vốn trước là con nuôi của Lý Khánh Văn, một Thiền sư từng thọ giới với
sư Vạn Hạnh ở Cổ Pháp.
Thiền
sư Vạn Hạnh đã làm nhiều thơ, dưới dạng phú sấm, huyền thoại, tạo tâm lý để Lý
Công Uẩn lên ngôi. Vạn Hạnh đã tận dụng mọi cơ hội để cổ vũ cho sự kiện: “Thái
tổ nên vương sáng nghiệp đầu”. Từ sự giải thích điềm lạ xoáy lông trên con chó
trắng (năm Tuất -1010), đến giảng giải ý nghĩa hình chữ thiên tử trên cây gạo bị
sét đánh.
Tài
trí sâu xa uyên bác của Thiền sư chẳng những nắm vững thiên cơ vận nước, nắm vững
chữ thời trong Kinh Dịch mà còn quyết đoán chính xác trong ngày giờ cụ thể.
Khi
thiền sư mới nhập định bên cạnh ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương, bỗng nghe
văng vẳng tiếng thơ ngâm:
Thiên
đức giàu sang no đủ khắp
Giữa
trời sao Nữ, Thánh quân sinh
Thánh
quân sinh ở đây chỉ Lý Công Uẩn ra đời lên ngôi. Sư còn nói rõ: “có lẽ chỉ
trong vòng ba tháng nữa quan Thân Vệ về, sẽ chống đỡ xã tắc cầm giữ ấn chữ Quốc”.
Có
bài thơ sấm còn nói rõ:
Lục
nguyệt, Tuất niên ngược bóng rồng
Nghĩa
là Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi vào tháng Sáu năm Tuất (1010).
Có
giai thoại kể rằng Thiền sư biết rõ ngày Lý Công Uẩn lên ngôi.
Lúc
đó Kinh đô còn ở Hoa Lư – rất xa Cổ Pháp. Vào một ngày, Thiền sư nói với chú và
nguòi bác của Lý Công Uẩn rằng “Thiên tử đã băng hà. Lý Thần Vệ đang ở nhà.
Nhưng nội trong ngày, Thần Vệ ắt sẽ được thiên hạ”, chú bác Lý Công Uẩn nghe
xong lấy làm lo sợ, sai người xuôi gấp về Hoa Lư, xem ra sao, thì quả đúng như
lời Sư nói.
Thơ
Sấm của Vạn Hạnh thường ngắn gọn, giàu hình ảnh, ý tứ sâu xa hàm xúc.
Tật
lê trầm bắc thuỷ
Lý
tử thụ Nam thiên
Tú
phương can qua tĩnh
Bát
biểu hạ bình an
Dịch:
Tật
lê chìm biển bắc
Cây
lý mọc trời Nam
Bốn
phương binh đao lặng
Tám
hướng chúc bình an
Vạn
Hạnh dùng hình ảnh cây lê chỉ nhà Lê, cây lý (mận) chỉ họ Lý. Lê chìm, Lý mọc.
Lại có cả những câu sấm huyền bí, chiết tự chữ Hán:
Nguyên
văn: “nhập khẩu thuỷ thổ khú ” là chiết tự chữ Cổ Pháp. Rõ ràng thiền sư Vạn Hạnh
đã dồn cả tài năng nhiệt huyết cho sự lên ngôi của nhà Lý.
Trước
lúc “Tịch”, Vạn Hạnh còn để lại một bài “Kệ” Thị đệ tử (Bảo đệ tử)
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm
vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh
suy nhu lộ thảo đầu phô
Nghĩa là
Thân
như bóng chớp có rồi không
Cây
cối xuân tươi, tiết thu lại héo
Đã
tu đến trình độ Nhậm vận thì không
sợ
hãi trước sự thịnh suy dời đổi
Thịnh
suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ
Tạm dịch thơ
Thân
như ánh chớp có rồi không
Cây
cối xuân tươi thu héo cong
Chớ
thấy thịnh suy mà sợ hãi
Như
trên đầu cỏ hạt sương trong.
Sau
này Lý Nhân Tông đã có bài kệ ghi nhận công lao Vạn Hạnh:
Vạn
Hạnh thông ba cõi
Lời
sư nghiệm sấm thì
Từ
làng quê Cổ Pháp
Chống
gậy trấn Kinh kỳ.
Bài Thứ 3 – THƠ ĐỜI LÝ: ĐÊM
QUA SÂN TRƯỚC NỞ CÀNH MAI
Theo
truyền thuyết, Lý Công Uẩn lúc còn là chú tiểu hay nghịch, một hôm bị thầy phạt,
trói bắt nằm dưới đất. Đêm khuya muỗi đốt không ngủ được, liền tức cảnh làm một
bài thơ:
Thiên
vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật
nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ
thâm bất cảm truòng thân túc
Chỉ
khủng sơn hà xã tắc điên
Tạm dịch
Trời
làm chăn gối, đất đệm lung
Nhật
nguyệt cùng ta ngủ trước song
Đêm
khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ
sợ sơn hà xã tắc rung
Đây
có thể chỉ là huyền thoại, do các nhà sư đặt ra để gán cho vị vua đầu tiên của
nhà Lý.
Thú
vị khi đọc bài thơ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh bảo mọi nguòi) của Lý Trường
(Mãn giác thiền sư (1051-1096) đã “lão, bệnh” mà lạc quan thể hiện tinh thân vô
ứng và phi cứu cánh của đạo Phật. Hình tượng cành mai tươi đẹp trong thơ đã phô
bày tất cả sụ đam mê, ham sống của con nguòi giũa thế giới hiện hữu, đầy siêu
thoát và bí ẩn như thực lại như hư:
Xuân
đi trăm hoa rụng
Xuân
đến trăm hoa tươi
Trước
mắt việc đi mãi
Trên
đầu già đến rồi
Chớ
bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua sân trước nở cành mai
Con
ngưòi trong thơ thiền là con ngưòi có trí tuệ, có bản lĩnh nghị lực và sức mạnh,
có thể tự mình giác ngộ chân lý một cách độc lập, dám đối diện với vũ trụ và
làm cho vũ trụ biến đổi trưóc tác động của mình với một khí thế xung thiên táo
bạo, thật phóng khoáng biết bao khi đọc những câu:
Nam
nhi tụ hữu xung thiên chí
Hựu
tưỏng Như Lai hành xú hành
(Làm
trai có chí xông trời thẳm
Dẫm
vết Như Lai luống nhọc mình)
(Thơ
của Quảng Nghiêm thiền sư (1121-1190) tu ở chùa Thành An huyện Thuận Thành Bắc
Ninh).
Cách
đây gần 1000 năm, ông bà ta có sùng đạo Phật, nhưng do hiểu được mệnh trời (tri
thiên mệnh, nên đã có quan niệm, bây giờ nghe rất lạ, phê phán cái mê cái hoặc
đương thời, bảo ban con cháu đừng mắc vào “cái vòng luẩn quẩn” cầu sự thoát tục:
Sinh
lão bệnh tử
Lẽ
thường tự nhiên
Muốn
cầu siêu thoát
Càng
trói buộc thêm
“mê”
thì cầu Phật
“hoặc”
thì cầu Thiền
Chẳng
cầu Thiền Phật
Mím
miệng ngồi yên
(Thơ
“Sinh Lão Bệnh Tử” của Ngọc Kiều – Ni sư Diệu Nhân chùa Phù Đổng Bắc Ninh).
Thế
tục và tôn giáo hoà đồng vào với nhau, tồn tại trong trạng thái như có như
không
Sắc
là không không tức sắc
Không
là sắc, sắc tức không
Sắc
không đều chẳng quản
Mới
khế hợp nhân tông
(Thơ
của Nguyên Phi Ỷ Lan vợ của vua Lý Nhân Tông).
Thơ
thiền xứ Kinh Bắc đã góp phần đem đến một nội dung tư tưỏng mới, nói lên tâm tư
tình cảm của tầng lớp trí thức xã hội đông đảo và quan trọng đương thời, đại diện
của một dân tộc, một xứ sở trong một thời đại hào hùng xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Đại Việt, triết lý về vũ trụ và nhân sinh trong một tinh thần nhập thế tích cực.
Bài Thứ 4: HÀN THUYÊN – HUYỀN
QUANG
Tiến
sỹ Nguyễn Thuyên người thôn Lai Hạ huyện Gia Lương (Lương Tài) tỉnh Bắc Ninh,
năm 1282 đời vua Trần Nhân Tông đã làm bài văn tế cá sấu bằng chữ Nôm rồi ném
xuống khúc sông Lô, tương truyền đã đuổi đuọc cá sấu đi. Tiếng tăm Nguyễn
Thuyên càng thêm lùng lẫy. Vua thì cho việc này giống như việc của Hàn Dũ bên
Tàu nên đã cho Nguyễn Thuyên đổi thành Hàn Thuyên.
Tác
phẩm của Hàn Thuyền có Phi Sa tập, gồm cả thơ Nôm lẫn Hán. Đây là tập thơ đầu
tiên của Nước ta viết bằng Quốc âm. Có giả thuyết đáng tin cậy cho rằng ông là
người khởi xướng việc vận dụng các thể thơ dân tộc kết hợp với Đường luật để tạo
thành thể thơ mới của nước ta. Niêm luật của thể thơ này hoàn chỉnh dần và để
ghi công đầu, tương truyền nguòi ta gọi đó là Hàn luật.
Tuy
còn tồn nghi, cũng ghi lại đây bài Văn Tế Cá Sấu Nôm của Hàn Thuyên còn luu
truyền đến ngày nay:
VĂN TẾ CÁ SẤU
Ngạc
ngư kia hơi! Mày có hay !
Biển
đông rộng rãi là nơi mầy
Phú
Lương đây thuộc về Thánh vực
Lạc
lối đâu mà lại đến đây ?
Há
chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân
quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời
Hùng vẽ mình vua từng dậy
Xuống
nước giao long cũng phải chừa
Thánh
thần nối dõi bản Triều nay
Dấy
từ Hải ấp ngôi trời thay
Võ
công lừng lẫy bốn phương tĩnh
Biển
lặng sông trong mới có rày
Hùm
thiêng ra dấu dân cày cấy
Nhân
vật đều yên đâu ở đấy
Ta
vâng Đế mạng bảo cho mầy
Hãy
về biển Đông mà vùng vẫy.
Đồng
huyện cùng Hàn Thuyên, thời nhà Trần còn có nhà thơ Huyền Quang quê Kinh Bắc.
Trong lịch sử văn học nước nhà có lẽ vụ án văn học “vụ án tình ái” đầu tiên dính vào Trạng
nguyên tu sĩ do duyên thơ mang đến, đó là vụ án Huyền Quang – Điểm Bích. Số là,
vào đời vua Trần Nhân Tông đạo Phật nước ta tiêu biểu là phái Trúc Lâm. Phái
này có 3 vị tổ là Điều Ngự (Trần Nhân Tông), Pháp Loa (Đồng Kiên Cường) và Huyền
Quang (Lý Đạo Tái).
Lý
Đạo Tái (1254-1334) là nguòi làng Van Ty ( Gia Lương Bắc Ninh), năm 20 tuổi đỗ
Trạng nguyên. Đuọc cử vào Viện Nội Hàn, tùng tiếp sú Tàu, thơ văn nổi tiếng.
Không bao lâu từ chức đi tu, được Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho sư Pháp
Loa giúp đỡ, đến năm 1330 sau khi Pháp Loa mất, được nổi tiếng làm vị tổ thứ ba
của phái Trúc Lâm. Ông đã để lại khá nhiều thơ hay:
NHÀ TRONG NÚI
Gió
thu ban tối thổi hiên tây
Nhà
núi đìu hiu tụa đám cây
Tấc
dạ tu hành tù nhũng thủa
Dế
kêu rầu rĩ hỏi ai đây?
ĐI THUYỀN
Cưỡi
thuyền lướt gió sóng mênh mông
Non
nước trời thu một sắc hồng
Tiếng
sáo thuyền câu ngoài bến sậy
Tiếng
rơi đáy nước móc đầy thuyền.
Tương
truyền năm Huyền Quang 60 tuổi, một hôm nhà vua Trần Anh Tông bảo thị thần và
tăng đạo rằng:
“Người
ta sống ở trong trời đất, nung khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc
thích màu đẹp, đều có tình dục như thế… Tại sao Huyền Quang, từ trước tới nay,
chỉ sắc sắc không không như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng mờ bụi. Đó là
ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục vậy?”
Có
một vị quan văn đứng bên tâu vua rằng:
“Vẽ
hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương. Biết người thì biết mặt mà không biết được
lòng. Xin hãy cứ thử xem thì sẽ biết là thế nào?”.
Nhà
vua nhìn xem ai thì đó là học sĩ, lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần
Anh Tông cho là nói phải, bèn im ắng, không động then mây, không lộ góc cạnh…
và một mẻ lưới được “giăng bẫy để bắt chim”, người đi thực thi Mỹ Nhân Kế là
nàng Điểm Bích, một cung nhân có cái vẻ nõn nà của Phi Yến, có cái thói khoe
tài của Điêu Thuyền.
Nhờ
có “cuộc tình” huyền thoại Huyền Quang – Điểm Bích mà có bài thơ, đượcc nàng Điểm
Bích “khai” với Vua Trần Anh Tông là của Huyền Quang ngâm lời “kệ”:
Vằng
vặc trăng mai ánh nước
Hiu
hiu gió trúc khua sênh
Người
hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ
Mâu
Thích Ca nào thuở hữu tình
Nỗi
“oan” của Huyền Quang thế nào đã đuọc ghi chép trong sách Tam Tổ thực lục, ở
đây chỉ bàn về thơ Huyền Quang. Đây là bài : “giai nhân tức sự” rất nổi tiếng,
được coi là bài thơ sớm nhất miêu tả đôi nét ngoại hình một người đẹp Việt nam,
đó là bài thơ của Sư mà không có khẩu khí nhà chùa mà lại cũng rất Thiền. Với
Huyền Quang, không có con người Thiền như lẽ sống, một sự tự hiện thực với tất
cả say mê mà chỉ có con người Thiền như một sự băn khoăn tìm tòi, nhận thức để
giải thoát bởi cái sầu nghìn thu của kiếp người. Thơ Huyền Quang thuộc loại thơ
tình ý cao siêu, lời bay bướm phóng khoáng, phải chăng vì vậy mà bị “bẫy” và
“vướng” vào “vụ án văn học” lấy thơ làm “chứng cứ” mà xét “tội” chăng?
Bài Thứ 5
Đến
đời Lê, thơ của thi sỹ Kinh Bắc – Bắc Ninh đã mang nặng chất “học giả”. Những
thi sỹ là Trạng nguyên, Tiến sỹ, Cử nhân, các vị quan lớn xuất hiện nhiều trên
thi đàn. Trong Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh tông với 28 vị (nhị thập bát tú) thì
2 trong 3 vị phó nguyên suý là người Kinh Bắc. Thơ cung đình, thù tạc kể cả Hán
lẫn Nôm phát triển ở mức độ cao.
Vì
đây là “Thi Thoại” (nhàn đàm bàn chuyện
làm thơ của dân Kinh Bắc – Bắc Ninh , chỉ bàn trong lúc trà dư tửu hậu) chứ
không phải “thi tuyển” (tuyển chọn thơ) nên những câu thơ, bài thơ “dẫn” ở đây
chỉ là để “bàn” chuyện làm thơ mà thôi. Tuy vậy thời Lê là thời đỉnh cao của
làng thơ Kinh Bắc, nên cũng xin sơ bộ thống kê một số thi tập như sau:
–
Thái học sinh Vũ Mộng Nguyên (người Tiên Du) đỗ cùng Nguyễn Trãi, phò Lê Thái Tổ,
làm đến Tế tửu, Quốc tử giám, đã để lại mấy chục bài thơ cách luật, phong cách
trang trọng mực thước.
–
Trần Khản (quê Từ Sơn) làm tới Chính sự viên tham nghị có tập thơ Phục Hiên, có
bài thơ sau:
Công
danh đạo đẳng mạc hồi đầu
Phú
quý phù vân để dụng cầu
Bất
đố bất tham tuỳ vận ngộ
Tứ
hưu chi ngoại cánh hưu hưu
Tạm dịch:
Công
danh chõ vỡ ngoảnh mặt đi
Phú
quý phù vân chuốc làm gì !
Tuỳ
phận chẳng tham, không ghen tỵ
Biết
thân tự chế… thiết chi chi
(Lý Thanh dịch)
–
Thái Thuận (tiến sỹ 1475) đã đạt tình thì kín mà ý thì sang:
BẾN HOÀNG GIANG TỨC CẢNH
Nhà
cỏ tuôn làn khói
Thuyền
nán ghé mái bồng
Trẻ
con ba tốn tốp
Bắt
cáy dọc bên sông
Thái
Thuận còn có bài:
SÔNG MUỘN GIANG
Bãi
phẳng triều lên ngập
Nhà
nông sớm vội cầy
Vắt
trâu nghe mấy tiếng
Cò
trắng giật mình bay
–
Nguyễn Thiên Tích (Nội Duệ – Từ Sơn Bắc Ninh) đậu tiến sỹ năm 1431 đời vua Lê
Thái Tổ, người cương trực, làm đến Binh Bộ Thượng thư, kiêm Tế tửu Quốc tử
giám.
Ông
có Tiên sơn tập 4 quyển. Thơ ông theo đúng âm luật Đường, bài thơ ông viết
trong khi đi sứ bên Tàu, nhưng hồn thì ở quê:
LÀM TRONG THUYỀN
Đêm
lặng trăng như vẽ
Trời
rét tuyết thành ho
Thuyền
côi nghìn dặm khách
Chiêm
bao: đang ở nhà .
–
Tiến sỹ Đàm Văn Lễ 18 tuổi (sinh 1432) người làng Lãm Sơn (Quế Võ) làm quan tới
Thượng Thư trải qua các đời vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông nổi tiếng
trung trực, sau lại bị vua Uy Mục căm giận đầy vào Quảng Nam và bị giết chết ở
Nghệ An.
Thơ
thiên nhiên của ông lấy cảm xúc chân thành làm nền cho thi hứng:
ĐÊM BA MƯƠI TẾT, NGẪU CẢM NÊN THƠ
Năm
mới hầu sang cũ chán rồi
Thói
đời lật lọng, nghĩ thương ôi !
Chuyện
thường năm tháng còn yêu ghét
Phụ
bạc nhân tình chớ trách ai
–
Tiến sỹ Nguyễn Xung Y (Nguyễn Nhân Phùng) người làng Kim Đôi (Quế Võ), thành
viên của Tao đàn nhị thập bát tú do Lê Thánh Tông chủ xướng. Ông đã sáng tác
“Tiêu Tương bát cảnh” bằng quốc ngữ đượm hồn thơ Việt:
MƯA ĐÊM TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG
Ngàn
Tương thuở rụng hạt mưa
Lã
chã thâu đêm gió đưa
Rọt
tiếng vàng, cao lại thấp
Rung
cành ngọc, nhặt thì thưa
Đành
anh tai khách nằm chăng nhắp
Lai
láng lòng thơ hứng có thừa
Sớm
dậy xem rồng mọc chấu (sừng)
Nghìn
hàng đổng (nhiều) lạ hơn xưa.
– Hoàng
Đức Lương, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) quê ở làng Cửu
Cao (Văn Giang) sau tới ở thôn Ngọ Kiều (Gia Lâm) rất nổi tiếng với Bộ “Trích
Diễm Thi tập” tuyển thơ từ thời Trần đến đầu đời Lê với 15 quyển. Những lời bàn
luận về thơ của Hoàng Đức Lương đã góp phần qúy báu vào gia tài lý luận văn học
cổ nước ta vốn không phong phú lắm. Ông viết “Cổ nhân đối với thơ, có người ví
với chả cá, có người ví với gấm thêu. Chả cá là vị ngon nhất đời, gấm thêu là sắc
đẹp nhất đời, ai biết ăn, biết ngắm đều biết qúy trọng, không coi thường bó
phí….”.
Thơ
Hoàng Đức Lương giản dị, kiệm lời, kiệm chữ nhưng lại mang nặng những suy tưởng,
triết lý sâu xa về cuộc đời, về vũ trụ bao la, về cuộc hành trình bất tận của
con người trên nẻo đường nhân gian mà không ai biết được đâu là điểm khởi đầu,
đâu là chỗ cư trú cuối cùng của kiếp người?
ĐẠO THƯỢNG
Lộ
viễn vô tận đầu,
Cổ
kim trường quí khứ
Kim
nhân vị khẳng hưu,
Cổ
nhân tại hà xứ?
Tạm dịch:
Đường
xa dường bất tận
Lữ
khách mải trước sau
Người
nay nào đã nghỉ
Người
xưa ở nơi đâu?
(Trên
Đường – Lý Thanh dịch)
THÔN CƯ
Tàm
ám tàng chính miên,
Thiềm
đê yến sơ nhũ
Lực
quyện hạ sừ qui
Trú
vĩnh cưu thanh ngũ (ngọ)
Tạm dịch:
Tằm
đang cuộn ngủ trong dâu,
Ém
vừa sinh nở ló đầu dưới hiên
Bừa
về vác mỏi vai êm,
Nghe
tu hú họi ngang thềm bóng trưa
(Ở
Làng – Lý Thanh dịch)
Với
Hoàng Đức Lương: Văn chương lá có nhan sắc, chả thế mà thi tập của ông có chọn
lựa (trích) ra từ những bài thơ diễm lệ của một thời.
Tiến
sĩ Thân Nhân Trung (1418-1499) quê làng Nếnh (Việt Yên), là phó đô nguyên súy Hội
Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông. Thơ ông được vua khen là “thợ khéo tay vô địch”
được ban một bộ áo long bào tuyệt đẹp “cánh cầu vô địch thủ, tài tác cổn long
y” .
VÂNG HỌA THƠ VUA: ĐẠO LÀM VUA
Nghiền
ngẫm uyên thâm kế thánh thần
Rộng
truyền pháp chế – phép trời ban
Chăm
dân – tam đại noi gương trị
Luyện
võ, bốn mùa mở cuộc săn
Chín
khúc sửa – xây điều chính sự
Tám
quyền cử – truất khéo công tâm
Ngôi
hoàng sừng sững ngời muôn thuở
Thế
nước thạch bàn vững ngàn năm.
Cùng
thời có cặp vợ chồng tài sắc nữ sĩ Kim Hoa – Phù học sĩ, thơ rất trữ tình:
Ý XƯA
Sen
lá như dù biếc
Sen
hoa tựa má đào
Nhớ
ai chưa gặp mặt
Thơ
thẩn mãi bên ao
(Hàn
lâm học sĩ Phù Thúc Hoành)
MÙA HẠ
Gió
cây lựu tơi bời
Trên
đu tha thướt dáng người giai nhân
Oanh
vàng ủ rũ thương xuân
Một
đôi tiếc cảnh tần ngần trên cây
Dừng
kim rủ thấp đôi mày
Nương
song hồn mộng xa bay cuối trời
Cuốn
rèm ai cứ gọi hoài
Để
hồn em chẳng được bay tới chàng
(Ngô
Chi Lan)
Bài Thứ 6.
Trên
thi đàn Bắc Ninh vào đầu thế kỷ 18 xuất hiện hai ngọn núi cao sừng sững trên bầu
trời thơ đất Việt, đó là Hồng Hà Nữ sỹ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), bà quê ở Giai
Phạm huyện Văn Giang Kinh Bắc và Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), ông
quê ở Làng Liễu Ngạn huyện Thuận Thành Kinh Bắc.
Từ
kiệt tác của Đặng Trần Côn, Hồng Hà nữ sỹ đã dịch “Chinh phụ ngâm” vô cũng diễm
lệ, chứa chan tình cảm, uyển chuyển và đầy nhạc điệu, chỉ cần đọc 2 trong số
408 câu cảu khúc ngâm đã nói lên nỗi lòng người chinh phụ:
Nỗi
lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp
trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Theo
giai thoại một hôm Hồng Hà nữ sỹ gặp Nguyễn Công Hãng ở giữa đường, Nguyễn có
yêu cầu bà làm 2 câu tả cảnh “độc hành ” (đi một mình ), bà liền ứng khẩu đọc
luôn:
Đàm
đạo cổ kim tâm phúc hữu
Truy
tuỳ tả hũu cổ quăng thần
(Đàm
đạo chuyện xưa nay thì có bạn gan ruột.
Theo
đuổi mình bên trái bên phải, có bày tôi chân tay).
Năm
1734 đời vua Lê Thuần Tông, vua Tàu có sai sứ sang tuyên phong, bà dùng văn
chương mà áp đảo được đại diện “thiên triều”. Từ đấy bà lừng danh khắp cả nước
(theo Lãng Nhân).
Đến
“Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu đã đưa ngôn ngữ văn học thành thành văn lên đến
đỉnh cao. Từ ngữ trong Cung oán ngâm khúc đã tinh xác, nhuần nhị và óng chuốt
khác thường. Đây là áng văn chương bác học, sử dụng một thể thơ thuần tuý dân tộc
Song Thất Lục Bát.
Nhạc
điệu Cung Oán hết súc réo rắt bởi sự hoà thành của hai vần Trắc ở câu 7 (nghe gay
gắt) và sự hoà hoãn của 2 câu 6-8 (nghe dịu êm hơn) dễ ngâm nga. Cung oán ngâm
khúc của Nguyễn Gia Thiều là một toà cung điện vàng son lộng lẫy được tạo bởi
tay thợ trời tài danh xứ Kinh Bắc. Cũng chỉ cần lấy 2 câu mà tác giả đã vẽ lên
sự kỳ vỹ bất tận của tạo hoá trước con người vĩ đại và đầy tính bi hài:
Lò
cừ nung nấu sự đời
Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương
Một
vương tôn công tử, một vị hầu tước trẻ tuổi tài hoa văn võ kiêm toàn. Thiếu gì
huỏng cao lương mỹ vị, ở bên ngoài đẹp quận chúa tiểu thư trong điện ngọc, nhà
vàng mà lại thốt lên:
Thà
rằng cục mịch nhà quê
Giàu
lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này
Thì
thật là thú vị, có một giá trị giáo dục sâu sắc với những kẻ giàu sang hãnh tiến
bợm đời. Thơ của vị đại quý tộc Bắc Ninh này, đến như câu: “Gót danh lợi bùn
pha sắc xám” thì cũng đượm chất thép của một lưỡi gươm triết lý quật vào mặt những
ai háo danh cầu lợi để rồi :
Giấc
Nam Kha khéo bất bình
Bừng
con mắt dậy thấy mình tay không.
Thơ
đến đây không còn là “viết cho mình” nữa mà là viết cho đời, cho dân tộc, gửi lại
muôn đời mai sau cho con cháu. Lúc còn tóc để chỏm (chưa đi học) thi thoảng tôi
(NK) lại thấy thầy tôi (lúc ấy mới ngoài 20 tuổi) ngâm nga câu:
Trải
vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng
Tôi
nghe thật lạ tai. Thầy tôi lại bảo đó là khúc “Tần cung oán” của cụ Ôn Như Nguyễn
Gia Thiều. Mẹ tôi thì thích đọc Thuý Vân Thuý Kiều của Nguyễn Du. Càng lớn lên,
tôi (NK) càng ngộ ra rằng: Thế mới biết văn chương trác tuyệt thì đến người dân
bình thậm chí cả người không biết chữ cũng thuộc, giá trị truyền cảm to lớn của
thơ là thế.
Bài Thứ 7.
Hoàng
giáp Trần Danh Án (1754-1794) người làng Bảo Triện (Bắc Ninh) một cựu thần danh
tiếng đời Lê Chiêu Thống, ông có tác phẩm Liễu Am thi tập.
Ông
là người khăng khăng giữ quan niệm “cô trung”, mặc dù cũng linh cảm được cái
triều đại mà mình tôn thờ đã mất vai trò lịch sử. Đó là chuỗi mâu thuẫn trong
tư tưởng được chuyển hoá thành nguồn thi hứng bi thiết:
Ngày
mới sắp tới gần, ngày cũ sắp qua
Ngày
mới cười vui, người cũ khóc
(Trừ tịch)
Con
bướm không biết rằng hoa đã rụng
Lòng
ai còn quyến luyến cánh hoa
(Đại Diện)
Về
“thơ con cuốc” (nhớ nước cũ) ông là người mở đầu về sau này Phạm Quý Thích, Bà
Huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Tản Đà … cũng theo hồn của Trần
Danh Án mà cảm hứng về đề tài này:
Ai
xui con cuốc gọi hè
Cái
nóng nung người nóng nóng ghê…!
Thơ
Trần Danh Án:
Giá
cô tại Giang Nam
Đỗ
Quyên tạo giang Bắc
Giá
cô minh gia gia
Đỗ
Quyên thanh quốc quốc
Vi
cầm thượng hiền quốc gia thanh
Cô
thần đối thử tinh nan cực
Lý Thanh dịch:
Bờ
Nam vang dậy giọng gà rừng
Bờ
Bắc kêu hoài tiếng đỗ quyên
Nhà
nhà đối tiếng kêu ai đó
Nước
nước âm vang một nỗi niềm
Nghĩ
loài chim nhỏ còn trung hiếu
Khiến
kẻ cô thần ngấn lệ riêng.
Thời
ông vua Lê Chiêu Thống (dân gian gọi vua rước quân xâm lược nhà Thanh “cõng rắn
cắn gà nhà”), còn để lại một số tác phẩm về bà Nguyễn Thị Kim (vợ Lê Chiêu Thống).
Bà
Nguyễn Thị Kim người xã Tỳ Bà, tổng Tỳ Bà huyện Lương Tài (Bắc Ninh), là vợ Lê
Chiêu Thống. Khi vua Quang Trung kéo quân ra Bắc. Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu,
bà Nguyễn Thị Kim chạy theo không kịp. Bà phải nương náu ở chùa, giấu tung tích
đến năm Gia Long thứ 3 (1804), hài cốt Lê Chiêu Thống được đưa về nước, bà liền
đến đón khóc lóc thảm thiết, rồi uống thuốc độc tự tử.
Sự
việc trên đến tai quan Tổng trấn Bắc Thành, ông ta làm biểu tâu lên triều đình
xin phong tặng. Vua Gia Long y cho và cho khắc bia đề chữ: “Yên trinh tuẫn
nghĩa Nguyên Thị Kim chi môn”, cấp cho 2 người phu mộ và 20 mẫu ruộng, đồng thời
sai con cháu nhà Lê trông nom việc thờ tự.
Tại
văn bia Chính nghĩa am, khắc vào năm Tân Hợi, Tự Đức thứ 4 (1851) có bài minh,
ca ngợi phẩm hạnh của bà Nguyễn Thị Kim như sau:
Phiên âm:
Vĩ
tai hiền tần
Nữ
trung anh kiệt
Phùng
thời bất tường
Nê
lộ phong tuyết
Mộng
chiếu đình hồ
Du
du tuế nguyệt
Nghĩa
dĩ tử thù
Thuỷ
chung nhất tiết
Thảo
hạnh hà kiên
Đoán
kim luyện thất
Thạch
trụ cương thường
Thiên
thu tuyên dương
Dịch nghĩa
Lớn
thay hiền nữ
Nữ
trung anh kiệt
Gặp
thời không may
rẻ
như bùn tuyết
ôm
mộng đi tu
Dặc
dài năm tháng
Lấy
chết đền ân
Trước
sau trọn tiết
Chí
sao bền bỉ
Như
sắt như vàng
Bia
đá cương thường
Nghìn
năm tuyên dương
Tại
văn bia trung bia ký khắc năm Quý Mùi, niên hiệu Tự Đức do Tri huyện huyện
Lương Tài Nguyễn Tất Đạt cung tiến, đã có bài ca ngợi:
Không
oán Sơn binh bách chiến lao
Hà
kiều tiên đoạn cữu an đào
Tân
tri cố quốc dự sinh định
Thân
tuẫn quy trinh nhất tử hào
Kiệt
truyện hãn văn chinh thạch lập
Danh
hương độc kiến tiết môn cao
Thiền
am thập cửu niên chung sự
Thanh
mộng yến triều dĩ kỷ tao
Tạm dịch nghĩa:
Không
nên oán quân Tây Sơn đánh trăm trận làm cho dân khổ; Cầu sông Nhị hà bị đứt lỗi
này trốn vào đâu? Tấm lòng nhớ về cố quốc đã có từ lâu rồi. Thân thà chết đi, để
lại ánh sáng của ngôi sao rơi. Câu chuyện liệt nữ ít được nghe, chỉ còn lại tấm
bia đá trinh tiết đứng đây; Thanh danh ở làng chỉ đến miếu nêu cao đó thôi; Mười
chín năm tu Phật, việc đời thế là xong; Giấc mộng sang nhà Thanh gặp vua mấy lần
mà không thành (Nguyễn Quang sưu tầm).
Lý
Thanh dịch thơ:
Chớ
trách Tây Sơn bách chiến lao
Cầu
sông Hồng đứt… lỗi ai nào?
Tấm
lòng cố quốc khư khư giữ
Tuẫn
tiết hồn vương một ánh sao
Chữ
ghi liệt nữ còn bia đá
Tiếng
ở làng truyền chốn miếu cao
Cửa
thiền ẩn náu mười chín độ
Nhập
Thanh bái đế… mộng thấy tao!
Cùng
cảnh ngộ như Nguyễn Thị Kim có bài thơ tỏ ý chí “trung thần nhà Lê” không theo
Sơn Tây, không làm quan với Gia Long (tuy có nhận chiếc khăn do Gia Long ban
cho).
Xin
tạm dịch:
Kiến
ong còn biết nghĩa quân thần
Há
lẽ làm người chẳng nhớ ân
Huống
đã tập rèn khuôn lễ giáo
Lại
từng rạng rỡ vẻ đai cân
Bắc
song xử sĩ khôn quên Tấn
Đông
Hải tiên sinh khó nhận Tần
Bên
mộ người sau còn nhắc nhở
“Lê
triều tiến sĩ nguyên họ Trần”.
Có
người bạn tấm tắc khen hay rồi ngần ngại mãi mới dám chê câu cuối bị thất niêm ở
chữ “tính” (họ) thanh trắc, đáng lẽ chữ ấy ở thanh bằng mới phải. Tiến sĩ Trần
khiêm tốn, nhờ bạn sửa giùm:
Câu
cũ là:
Cố
Lê triều tiến sĩ tính Trần
Sửa
mới là:
Lê
Triều tiến sĩ, Nguyễn Triều cân
(Lê
triều tiến sĩ, Nguyễn triều khăn).
Trần
tiến sĩ vụt tỉnh ngộ liền vứt cái khăn của vua Gia Long (dân gian cho rằng ông
vua này “Rước voi về rầy mả tổ”) xuống đất rồi bái tạ lỗi:
–
Chết thật, không có huynh ông chỉ bảo thì trăm năm danh tiết còn gì.
Bài Thứ 8:
TỪ CAO BÁ QUÁT… ĐẾN NGUYỄN QUYỀN
Nhà
thơ Cao Bá Quát (1808-1855) quê Bắc Ninh, cùng với Nguyễn Văn Siêu, đương thời
được coi là “Thần Siêu, Thánh Quát” hoặc “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”. Thi
xã Mặc Vân của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương được các bậc công khanh và quan
chức danh tiếng hưởng ứng như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn
Siêu… Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là bạn của Cao Bá Quát, nhưng là con trai thứ
tư của vua Minh Mạng (bậc chú của vua Tự Đức) là một trong “Trường An tứ kiệt”.
“Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường”, nể Miên Thẩm, nên Cao Bá Quát cũng là hội
viên của Thi Xã này, thế mà Cao Bá Quát “vuốt mũi không nể mặt”. Một hôm ở Viện
Hàn Lâm, được xem những bài thơ xướng hoạ của Thi xã Mặc Vân, Cao Bá Quất lắc đầu,
bịt mũi, ngấn ngẩm đặt một câu lục bát:
Ngán
thay cái mũi vô duyên
Câu
thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An
Con
thuyền buôn mắm xứ Nghệ và những bài thơ Thi xã đều nặng mùi như nhau.
Tài
tình chi lắm cho trời đất ghen, lại dám coi trời bằng vung chả thế mà (theo
giai thoại) có dịp Cao Bá Quát (Cao Chu Thần) dám bịa thơ “lỡm” cả đấng minh
quân (vua Tự Đức):
Huếch
hoác ngựa về theo gió đưa
Hênh
hoang người cũng tự về qua
Oanh
vườn học nói khề khà giọng
Đào
nội đua cười lấm tấm hoa
Lộp
bộp chẳng nghe xuân móc nặng
Bài
nhài chỉ thấy hạt mưa thu
Khù
khờ câu cú ai không biết
Khệnh
khạng còn đem hỏi khách thơ
Những
“huyênh hoang, huếch hoác, bài nhài” đã có ý tinh nghịch “xỏ” ngầm vua, đến hai
(2) câu cuối là chửi vỗ mặt “khù khờ, khệnh khạng”… Do đó Cao Bá Quát (Cao Chu
Thần) bị vua Tự Đức đày ải, giết là không tránh khỏi.
Từ
nửa sau thế kỷ 19 trở đi, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp kéo dài là môt sự
kiện trọng đại chi phối toàn bộ sinh hoạt và tư tưởng dân tộc ta . “Xã tắc lâm
nguy, sỹ phu hữu trách.”
Các
thi sỹ Bắc Ninh thời này đã khởi sắc với ý thức công dân rõ rệt, tiếp sau Cao
Bá Quát là Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Phan Văn Ái, Nguyễn Quyền…
đã để lại những áng thơ văn yêu nước rất có giá trị.
Nguyễn
Quyền (1869-1941), đỗ tú tài, làm Huấn đạo Lạng Sơn. Ông là sáng lập viên kiêm
Phó Ban Giám hiệu trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Ông bị Pháp đầy ra Côn Đảo,
sau chúng đưa về an trí tại Bến Tre và mất ở Sa Đéc.
Nguyễn
Quyền để lại những câu thơ bất diệt ví dụ trong bài Kêu hồn nước:
Hồn
xa dòng dõi Lạc Long
Con
nhà Nam Việt người trong giống vàng
Hoặc
trong bài Phen này cắt tóc đi tu có câu:
Phen
này cắt tóc đi tu
Tụng
kinh Độc Lập, ở chùa Duy Tân…
Ai
tu xin dốc một lòng
Nghìn
thu quyết tạc chữ đồng đến xương.
Bài Thứ 9:
TỪ … HOÀNG CẦM ĐẾN … HOÀNG HƯNG
Thời
kỳ từ 1930-1945 Bắc Ninh còn có thi sỹ Trần Minh Tước (Minh Tước, Xích Điểu)
sinh năm 1913 ở Dục Tú - Từ Sơn -Bắc Ninh. Ông hoạt động thời kỳ Mặt trận Dân
chủ; từng bị bắt và bị giam qua các nhà tù khám lớn Sài Gòn, Hoả Lò, Sơn La. Từ
năm 1931 ông đã có thơ đăng báo, nổi tiếng là thơ trào phúng.
Trong
dân gian vẫn còn nhiều người nhớ bài thơ Tết trong nhà tù Sơn La:
Tết
nào bì kịp tết Sơn La?
Cảnh
ngục mà xuân vẫn nở hoa
Ba
bản kịch tình, chim Tước hót
Một
màn vua bếp, kép Long ca
Chè
lam Kinh Bắc, ngô thay lạc
Cỗ
nấu thành Nam, sắn giả gà
Quốc
tế ca vang hùng khí dậy,
Hẹn
ngày phá hết xích xiềng ra
(Tết 1940)
Thơ
trữ tình cách mạng cuả Minh Tước lạc quan, chân thực tuy chưa đạt tới mức như Tố
Hữu; Nhưng ở Xích Điểu thì thơ ông lại là “cây súng số 1” trên báo Cứu Quốc,
Nhân Dân một thời nã đạn trào phúng khá trúng đích đối phương, rất được tán thưởng.
Ngoài
Minh Tước ra, Kinh Bắc còn có nhà thơ trào phùng châm biếm Lê Kim tiếng tăm với
nhiều bài thơ đặc sắc trong thời chống Pháp và chống Mỹ.
Thế
hệ kế tiếp có nhà thơ Hoàng Cầm.Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Bắc Ninh đạt tới độ
Hàn Lâm. Từ thực tại đã thăng hoa tới những miền hư viễn của tâm linh. Rất nhiều
đam si, rất nhiều trầm ẩn nên không hiếm khoảng khắc hồn thơ của thi sỹ nhập
vào vô thức. Có thể ta không hiểu ngay được thơ ông! Song lại dễ cảm. Đó chính
là giao điểm của thơ và người cảm thụ. Cái phi lý trong thơ (và nhiều khi cả
trong đời thường) lại trở thành hợp lý của sự tồn tại, thích ứng cũng nên.
Bài
thơ bên kia sông Đuống (1948) đã làm cho Hoàng Cầm thêm nổi tiếng và sông Đuống
thành biểu tượng của quê hương chảy mãi mãi trong hồn thơ đất Việt, sánh ngang
tầm với Hoàng Hà (Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian), Dương Tử (sông Dương Tử
liễu đua tươi) trong thơ Đường bên Trung Quốc. Thơ Hoàng Cầm với một bút pháp độc
đáo, một phong cách riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng. Thường
bất chấp văn phạm. Ông là người kế tục thơ mới và đi xa hơn về phía hiện đại –
một lối thơ siêu thực hôm nay.
Đó
là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải thoát.
Kinh
Bắc còn có nhà thơ Lê Đạt (sinh 1929) quê mẹ ở Đình Bảng, quê cha ở Ái Lữ. Vì số
phận không bình thường, nên mạch thơ của Lê Đạt cũng không bình thường. Thời
năm 1956-1957 cùng với Trần Dần, nhà thơ Lê Đạt cho ra một loạt thơ bậc thang,
bắt chước Mai a (Liên Xô) rất to tiếng, gân cốt, ồn ào… định đi tiên phong “đổi
mới thi ca” làm thơ chính trị, kiểu như hô khẩu hiệu, ví dụ như 2 câu kết của
bài Cha tôi là bài “được” nhất của Lê Đạt thời ấy:
Cha
đã dạy con một bài học lớn
Đau
thương
Kiên
quyết làm người
Cuối
đời Hoàng Cầm làm chủ mảng Tình Yêu, còn Lê Đạt đi làm “Phu chữ”, cả hai đều đạt
được những thành tựu lẫy lừng, để lại dấu ấn trên thi đàn, có tiếng vang ra cả
nước ngoài.
Thơ
Lê Đạt không phải viết cho đại chúng, là người đi tiên phong trong việc thể
nghiệm cách tân thơ ở nước ta. Sự tìm tòi đổi mới có cái được, có cái chưa được.
Nói như nhà thơ Hoàng Cầm: “vì anh mải vật vã quá kỳ thu nặng nhọc với các con
chữ nên Nàng thơ đến rồi bèn bỏ đi. Rất nhiều chữ lấp lánh đấy nhưng chưa phải
là ngọc. Kết quả những bài đó làm tôi cũng mệt theo anh lắm khi hoa cả mắt, nhức
cả đầu”.
Thời
gian sẽ là người thày phán xét công bằng nhất, cái tinh hoa sẽ còn mãi với đời.
Có nhiều phong cách thể hiện thơ - những vẫn phải lấy cái Hồn mà tồn tại, đó là
những ý tưởng lạ gắn với đời sống sinh động của chúng ta.
Tiếp
bước Lê Đạt trong công cuộc Cách Tân Thơ có nhà thơ Hoàng Hưng sinh năm 1942
(người làng Phù Lưu - Bắc Ninh), cả hai đều tài hoa lãng tử “Dám”, đi tìm Bóng
Chữ (Lê Đạt), và tìm Cái Mặt (Hoàng Hưng) Mặt gì? Không biết (Nói như kiểu nhà
thơ Thanh Thảo).
Hoàng
Hưng có một bài thơ đang được truyền tụng rộng rãi:
Người
Về
Người
về từ cõi ấy
Vợ
khó một đêm con lạ một ngày
Người
về từ cõi ấy
Bước
vào cửa người quen tái mặt
Người
về từ cõi ấy
Giữa
phố đông nhồn nhột sau gáy
Một
năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai
năm còn mộng toát mồ hôi
Ba
năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười
năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối
Một
hôm có kẻ nhìn trân trối
Một
đêm có tiếng bâng quơ hỏi. (*)
Hãi
quá! Cứ như là lặp lại Gia Ve (trong Những người khốn khổ của Vích Tô Huy Gô –
Les Misirésables – Victor Hugo).
Thi
sỹ là người đi tìm cái Đẹp của cuộc sống, của tình cảm. Vì thế, dù tân kỳ gì đi
nữa thì thơ của anh cũng phải đu nhập được vào tâm tư và tình cảm của đồng bào
quê hương anh.
Chúng
ta rất mong có một thời đại thơ mới (thơ hiện đại) ra đời.
Bài Thứ 10:
Tiếp
theo các chí sỹ - thi nhân tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục, đầu thế kỷ 20 Bắc
Ninh còn có nhiều thi nhân nổi tiếng.
Độc
giả biết Ngô Tất Tố (1892-1954) qua Tiểu thuyết Lều chõng, Tắt đèn và phóng sự
Việc làng, ký sự lịch sử Vua Hàm nghi với việc kinh thành thất thủ; với kiến thức
uyên bác, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực :
–
Khảo cứu có “Phê bình Nho học của Trần Trọng Kim”, khảo cứu về Lão tử, Mặc tử,
Văn học Lý, Văn học Trần, Hồ, Mạc, Tây Sơn...
–
Dịch thuật có Đường thi, Hoàng Lê nhất thống chí, Kinh dịch;
–
Về thi ca, ông có bài thơ rất nổi tiếng viết khoảng năm 1929 (Trên báo Thần
Chung Sài Gòn):
NGHE GÀ GÁY CẢM HOÀI
Tiếng
gà xao xác giục bên đường
Trên
gối xui người dạ ngổn ngang
Ngày
tháng mài mòi đôi má trắng
Nước
non đeo nặng tấm gan vàng
Tánh
chim mỏi cánh bay về tổ
Kiếp
ngựa tù chân lại nhớ đàng
Thôi
cái cuộc đời còn thế thế
Làm
trai chi giữa gốc tre làng
Thơ
của một vị túc nho, nhưng không hủ nho. Bình cũ rượu mới. Một nửa là rượu nhà
quê làng Cói, còn một nửa là rượu Hà Thành.
Đến
Phong trào thơ mới (1930-1945), đất Bắc Ninh lại xuất hiện hai nhà thơ lừng tiếng
Thế Lữ và Đoàn Phú Tứ.
Thế
Lữ (1907-1989) quê Phù Đồng (nơi có đền thờ Phù Đồng Thiên Vương – Tháng
Gióng).
Theo
Hoài Thanh thì: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh
sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”. Đó là “cái công Thế Lữ đã dựng thành nền
thơ mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không
bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước
vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”. Mặc dù bước
sau Phan Khôi, nhưng Thế Lữ là nhà thơ đi đầu xuất sắc nhất của phong trào thơ
mới. Thế Lữ là “ông Hoàng” của thời đại thơ ca mới.
Cho
đến hôm nay, thì quê hương Bắc Ninh thân yêu vẫn hiện lên trong tâm trí ta một
cái gì rất Việt Nam (xứ Giao Chỉ ngày xưa và Bắc Ninh đương đại) để ta yêu dấu
đến nao lòng xứ sở miền quê quan họ này:
Sáng
hôm nay sương biếc toả mờ mờ
Như
hương khói đượm đầu cau, mái rạ
Với
Thế Lữ thể thơ 8 chữ đã trở thành thể tiêu biểu của thơ mới. Đó là thể thơ ưu
việt bởi tính chất gẫy gọn sinh động và đầy hình tượng hiện đại, đánh dấu một
bướcphát triển nhảy vọt của tư duy thơ Việt nam:
Nhớ
cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với
tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…
Thế
Lữ chủ trương dùng thơ ca để phụng sự cái đẹp của thế giới, của con người và
tình yêu, phải chăng đó cũng là cái đẹp khuynh thành của Bà Chúa Chè, hoà nhịp
với văn mạch dân tộc ở chặng đường tuyệt vời hứng khởi?
Bắc
Ninh còn có Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ (1910-1989). Ông có thi phẩm bất hủ Màu Thời
Gian, đồn rằng để tặng một giai nhân là con gái nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh (Nàng
là em nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ?).
Bài
thơ chỉ có 18 câu với 101 chữ của một tình yêu đơn phương, viết như thể không
đâu vào đâu mà đủ cả nhạc, hoạ, thơ:
Sớm
nay tiếng chim thanh
Trong
gió xanh
Dìu
vương hương ấm thoảng xuân tình.
Từ
ngàn năm nồng ấm, ta (như Hoàng Đế) lặng dâng Nàng (phi tần của ta) cả “Trời
mây phảng phất nhuốm thời gian”. Lãng mạn và phi thường quá, trên cả tầm hoàng
tử yêu công chúa. Bởi thế thời gian mới có Màu và có Hương. Và cho dù như Hạng
Vũ - Ngu Cơ, Đường Minh Hoàng - Dương Quý Phi, Trịnh Sâm - Đặng Thị Huệ, Quang
Trung - Ngọc Hân… thì tình một thủa còn hương, bởi vì “hương thời gian thanh
thanh, màu thời gian tím ngát” kia mà.
Bài Thứ 11: NHỮNG NHÀ THƠ BẮC NINH XA QUÊ
Người
Bắc Ninh vì nhiều lý do phải sống xa quê. Điển hình nhất là hậu duệ nhà Lý lánh
nạn nhà Trần sang ở Hàn Quốc đã gần 1000 năm, nay mừng mừng tủi tủi đã trở về
quê, nhất là vào dịp 15 tháng Ba Âm Lịch đúng ngày Lê hội đền Đô (Nơi thờ 8 vị
vua nhà Lý).
Trong
số những người sống xa quê có rất nhiều người là thi sỹ. Nguyễn Khôi đã có câu
thơ nói hộ bao nỗi niềm của họ:
Dù
tản mát chân trời góc bể
Còn
tấc lòng vẫn gửi gấm nơi quê
Cử
nhân Luật Nguyễn Thanh Giang (sinh 1972 ở Từ Sơn), nghiên cứư sinh ở Viện Hàn
Lâm Ba Lan, ngoài công việc, anh cũng làm thơ và dịch thơ. Anh có nhiếu tứ thơ
hay về thân phận xa xứ của lưu học sinh là người lao động ở đất khách quê người.
VÔ ĐỀ
Qua
đường thấy là vàng rơi
Huơ
tay chợt thấy tình vơi ít nhiều.
Kẻ
kiếm tiền
Vo
viên ước mơ hưởng lạc
Đem
giấm thật chua nơi hũ sâu tâm trí
Có
đêm toát mồ hôi lưng trằn trọc
Xé
ra nhấp nháp, ít một, ít một thôi, sợ hết
Không
dám chết, sợ mất dịp kiếm tiền thêm nữa, thêm nữa
Hưởng
thụ bằng miệng môi, tử chi, dè sẻn thôi, tuỳ dịp thôi
Thói
quen ăn vào não, ngấm vào gen, truyền đời sau
Kẻ
học
Nghiện
sách, mơ màng đánh vật với đời, vì tiền, vì sỹ diện;
Có
khi đánh mất ước mơ, vì sống đã như mộng du
Suốt
đời đi tìm ‘cái ấy’, sắp tóm được lại tuột tay, lại đắng cay
Kẻ
chơi
Quẫn
trong cuộc tìm thú chơi, thoả bao giờ hết thèm muốn dục tình
Rượu
tràn trề, vòng bạc nhập nhoè
Cơn
khát có khi dừng, nhưng không khi nào dứt
Rơi
hun hút vào tình êm ái, ướt át, khoái lạc tràn phun trơ lại mệt mỏi, đờ đẫn
Những
khuôn hình không Montage dính thành chuỗi sống, không đầu không đuôi, không kịch
bản, tiếng người láo nháo thay nhạc êm.
(Nguyễn
Thanh Giang: Đam mê trích Trường ca Đời 1995).
Nhà
thơ Võ Sa Hà (quê Tam Sơn Bắc Ninh) khi xa quê xuất thần vào giờ phút thiêng
liêng nhất trong năm:
Quê
hương ở tận cuối trời
Mẹ
cha thì đã về nơi suối vàng
Tết
về xót nỗi tha hương
Hồn
nâng chén rượu tìm đường về quê.
Thật
là cảm động rất thi sỹ !
Nguyễn
Hồi Thủ (sinh 1949 quê Bắc Ninh) đang sống ở Tây Âu có nhiều bài thơ trông về
quê hương xứ sở*
Chợt
nhớ
Em
ở sát nhà tôi
Cách
nhau bờ dậu thấp
Tụi
mình học cùng lớp
Mẹ
em bán cau bán thuốc
Chợ
Dầm xa vời vời
Đường
đi cát trắng trùng điệp nắng
Mà
khi về chợ vẫn hay cười
Hương
ơi
Bên
giếng nhà em có bụi chuối bồ hương
Quanh
năm bòng mát sang vườn nhà tôi
Nhà
tôi nhài lý thơm về tối
Tôi
bỏ ra đi mười mấy tuổi
Mà
sao còn nhớ tóc em dài.
(Xem
thêm Nguyễn Hồi Thủ: Gió và bụi, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt nam Hà Nội
1-1995).
Bài Thứ 12: DỊCH THƠ TỪ NGÔ TẤT TỐ ĐẾN THÚY TOÀN
Làm
thơ hay đã khó, nhưng dịch thơ đạt và “hay” lại càng khó hơn. Ai đã thò bút dịch
thơ đều thấu hiểu: dịch là phản (nếu không đạt), dịch là thắng (nếu đạt). Đoàn
thị Điểm dịch “Chinh phụ ngâm” Phan Huy Vịnh dịch “Tỳ bà hành” là đạt ở vế thứ
hai này.
Dịch
thơ Đường “siêu” như Tản Đà mà cũng có bài làm sai cả ý nguyên tác. Ví dụ khi dịch
bài Độ Tang Càn (Qua sông Tang Càn) của Giả Đảo, câu “Khách xá Tinh Châu dĩ thập
sương” đáng lẽ phải dịch là “Mười thu làm khách Tinh Châu” thì Tản Đà dịch là “Tinh
Châu đất khách trải mười hè”. “Sương” ở đây phải là “thu” mới hợp với khách tha
phương kia.
Nhà
văn Ngô Tất Tố (1) quê ở làng Cói – Từ Sơn- Bắc Ninh dịch bài “Tự quân chi xuất
hĩ” (Từ thủa chàng đi) đạt mức điêu xảo, đã phủ thêm hồn và vóc dáng người
chinh phụ vào 2 câu của Trương Cửu Linh:
Tư
quân như nguyệt mãn
Dạ
dạ giảm thanh huy
Dịch là:
Nhớ
chàng như mảnh trăng đầy
Đêm
đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm
Thế
hệ sau Ngô Tất Tố còn có một dịch giả thơ khá quen thuộc với các độc giả một thời
yêu chuộng thơ Nga. Người đó ở làng Phù Lưu – chợ Dầu – Từ Sơn Bắc Ninh. Chàng
trai họ Hoàng “Thế gia vọng tộc”, đã từng du học ở Nga, dịch giả Thuý Toàn sinh
năm 1938. Qua hơn 40 năm dịch tiếng Nga từ Puskin, Lermontov tới Bunin, Blok,
Exenhin, Gamzatov… Những câu thơ do anh dịch như “Tôi yêu em đến nay chừng có
thể” hay “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu ấy”… đã nằm trong sổ tay của rất nhiều
người yêu thơ.
Được
hỏi về bài thơ Nga đầu tiên anh dịch ? Thuý Toàn tâm sự: Đó là bài “Buổi sáng
mùa đông” của Puskin. Lúc đó tôi đang mày mò dịch nhưng không đạt. Mãi 30 năm
sau, năm 1978, khi tóc đã bạc nhiều, tôi lại quay lại với bài thơ đó:
Dưới
trong xanh thăm thẳm của vòm trời
Rừng
quanh quạnh riêng mình in vệt thắm
Từng
xanh lá hiện qua làn nhũ mỏng
Sóng
nhỏ trôi lấp lánh dưới làn băng (2)
Ở
Bắc Ninh còn có dịch giả Nguyễn Khôi. Nhờ hơn 20 năm sống ở Sơn La, nên am tường
văn hoá Thái, Nguyễn Khôi là người đầu tiên chuyển thể Sông chụ son sao (Tiễn dặn
người yêu) từ tiếng Thái sang thơ Việt (song thất lục bát) 1005 câu. Đã được
tái bản nhiều lần. Trong đó chỉ 2 câu tiễn dặn thôi mà tình người con trai con
gái Sơn La nó sâu sắc vô cùng:
Lời
thương em nhớ đừng phai
Hồn
thương đừng có đổi thay cõi trời
Hoặc là:
Trái
tim xưa vẫn còn treo
Anh
ở đâu? Vía còn đeo trong hồn
Và:
Người
đi xa quẩn quanh vía bám
Dây
trầu leo lên quấn hồn yêu
Trong
lĩnh vực dịch thơ ở Việt Nam, Bắc Ninh đã có nhiều đại diện khá tiêu biểu!
Chú thích:
(1)
Mời xem thêm Ngô Tất Tố “Thi -Văn – Bình – chú – Lê – Mạc – Tây Sơn” (từ giữa
thế kỷ 15 đến thế kỷ 19) Mai Lĩnh Xuất Bản: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Chi
Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Vũ Huy Lượng, Phan Huy
Ích, Ngọc Hân Công Chúa, Dương Xuân hầu, Tả Đình Hầu, Phạm Đan Phương, Di thần
Nhà Lê…
(2)
Mời đọc thêm Thơ Puskin, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin Hà Nội 2001 (Người dịch
Hoàng Trung Thông, Thuý Toàn, Xuân Diệu) Hội Nhà văn Nga tặng Bằng danh dự cho
dịch giả Thúy Toàn.
PHẦN II: NGOẠI BIÊN
Tặng
Người em đồng hương – Tiến sỹ Nguyễn Văn Hoa
Bài 1:
VĂN NHƯ SIÊU QUÁT...?
Vào
giữa thế kỷ 19, tại đất Thần Kinh (Huế) xuất hiện “Trường An tứ kiệt” với hai
câu nhận xét cho là của Vua Tự Đức:
Văn
như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi
đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường
Tạm dịch:
Văn
như Siêu và Quát, thì đến văn đời tiền Hán cũng không có giá trị gì; Thơ đến
Tùng Thiện công và Tuy Lý công thì như bỏ qua cả thời Thịnh Đường.
Sở
dĩ, cho là của Tự Đức là hai câu trên nói theo khẩu khí Đế Vương, gọi xách mé
tên tục Phó bảng Nguyễn Văn Siêu là “Siêu”; cử nhân Cao Bá Quát là “Quát” thì
chỉ có Đức Kim Thượng (Vua đương thời) mới dám gọi “thần Siêu, thánh Quát” như
thế; còn bình thường tôn trọng đều gọi “Nguyễn Phương Đình” và “Cao Chu Thần”.
Tùng ở đây là Tùng Thiện công (Nguyễn Phúc Miên Thẩm) và Tuy là Tuy Lý công
(Nguyễn Phúc Miên Trinh) - sau hai vị này được truy tặng là Tùng Thiện Vương và
Tuy Lý Vương (1936) đều là con Vua Minh Mạng, ở vào hàng chú của Vua Tự Đức.
Vừa
qua, nhân chuyến di khảo miền Trung của Hội VNDG Hà Nội. Đoàn có đến viếng Phủ
Tùng Thiện Vương và phủ Tuy Lý Vương ở Huế. Tại đây, rõ ràng hai câu trên đều
không ghi tác giả, con cháu trong Phủ của hai Vương đều nói: Đó là của người đời!
(dân gian truyền tụng). Đối với các danh sĩ đương thời thì “Trường An tứ kiệt”
là những nhà văn, nhà thơ bậc thầy, chữ nghĩa nhiều như Vua Tự Đức mà còn “nhờ”
Miên Thẩm duyệt thơ hộ nữa là… “Trường An tứ kiệt” không những nổi tiếng trong
nước, các vị còn được các nhà thơ, nhà văn Trung Hoa ngày ấy đánh giá rất cao.
Tiến sĩ Lao Sùng Quang, sứ thần nhà Thanh khi tựa đề “Thượng Sơn thi tập” đã nhận
xét Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) là người luôn tự bồi dưỡng về đạo đức nên thơ
ông đã đề cao được tính giáo hoá của nó. Nhan Sùng Hoành ở “Việt Đông thi xã”
(Quảng Đông) thì cho tài thơ của Miên Thẩm không hề thua kém Tào Thực, con trai
Tào Tháo (đi bảy bước làm một bài thơ). Về số lượng thơ Miên Thẩm sáng tác đứng
đầu thời bấy giờ (14 thi tập với 2200 bài) – còn chất lượng của “Trường An tứ
kiệt” là bốn đỉnh cao văn thơ thời Tự Đức. Điều độc đáo là tình bạn, tình thơ của
các vị thật trong sáng (không phân biệt tầng lớp xuất thân, địa vị xã hội, sự
khác nhau về khuynh hướng tư tưởng và con đường đời). Khi Cao Bá Quát bị bắt đi
hiệu lực ở Giang Lưu Ba, Miên Thẩm là người duy nhất dám “rút kiếm, vì anh hát
một khúc bi ca”. Khi Cao Bá Quát bị Vua Tự Đức hạ lệnh chém đầu, Phương Đình
(án sát Siêu) vẫn có đôi câu đối viếng:
Ta
tai! quán cổ tài danh, nan đệ nan huynh, bán thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử;
Dĩ
kỹ! đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hồn trần lưu xú diệc lưu hương.
Tạm dịch:
Thương
thay tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;
Thôi
nhỉ sự có đến vậy, đáng yêu đáng ghét, dây xấu cũng dây thơm.
“Chữ
tài liền với chữ tai một vần” cứ như một định mệnh?
Còn
câu:
Một
người làm quan cả họ được nhờ;
một
người làm thơ cả họ bơ phờ…
Xưa
nay, âu cũng có phần chí lý!
Viết tại Huế, 10 tháng giêng 2007
Bài 2:
CÂU ĐỐI “NHẤT SINH ĐÊ THỦ BÁI MAI HOA” CÓ PHẢI CỦA CAO BÁ QUÁT?
Trong
tạp chí Diễn đàn văn nghệ VN số 3/2006, nhà thơ nổi tiếng Phạm Tiến Duật (Tổng
biên tập) có đăng bài thơ “cây mai trắng trong phòng Tổng Biên tập” tặng nhà
văn, thiếu tướng Hữu Ước, có dẫn ở phần “đề từ” câu đối của Cao Bá Quát:
Thập
tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất
sinh đê thủ bái mai hoa
Dịch là:
Mười
năm lặn lội tìm cây kiếm cổ
Một
đời chỉ biết lạy hoa mai
Theo
các tài liệu đã được các nhà nghiên cứu tiền bối công bố, thì đôi câu đối trên
có xuất xứ như sau:
Theo
“Như Thanh Nhật ký” năm Mậu Thìn (1868) vua Tự Đức cử đoàn sứ bộ sang triều cống
nhà Mãn Thanh: cầm đầu là chánh sứ Lê Tuấn (đỗ Hoàng Giáp năm 1853); phó sứ là
Nguyễn Tử Giản (Hoàng Giáp năm 1884); phó sứ thứ 2 là cử nhân Hoàng Tịnh.
Hành
trình của sứ bộ theo lối xưa từ ải Nam Quan đến Yên Kinh “bộ khôn bằng ngựa,
thuỷ khôn bằng thuyền” mất 181 ngày (lưu trú 64 ngày đi 117 ngày trong đó 44
ngày đường bộ, 73 ngày đường thuỷ). Khởi hành ngày 1/8 Mậu Thìn, sau 125 ngày
thì đến huyện thành Hà Dương tỉnh Hồ Bắc, ở đó đoàn Sứ bộ Việt Nam được viên
tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối cho chánh sứ Lê
Tuấn:
Hữu
Khẩu tu ngôn thiên hạ sự
Kháng
hoài bất nhượng cổ chi nhân
Tạm dịch:
Có
miệng nên nói việc thiên hạ
Nghị
lực không chịu nhường người xưa.
Câu đối tặng Nguyễn Tử Giản:
Thập
tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất
sinh đê thủ bái mai hoa
Tạm dịch:
Mười
năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ
Một
đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai
Câu đối tặng Hoàng Tịnh:
Truyền
thần cổ hữu Lý Tư Huấn
Vấn
tự kim vô Dương Tử Vân
Tạm dịch:
Truyền
thần xưa có Lý Tư Huấn
Hỏi
chữ nay không Dương Tử Vân.
Sự
kiện trên được chép trong “Yên thiều bút lục” của Nguyễn Tử Giản (1823-1890)
sách viết tay của thư viện khoa học Trung ương, số A.852 tờ 18a-b; Cứ liệu trên
đã được các học giả Tảo Trang và Hoa Bằng đưa ra trên tạp chí văn học số 2 - Hà
Nội năm 1972, trang 61 và 64).
Câu
đối “… bái mai hoa” của Ngải Tuấn Mỹ tặng Nguyễn Tử Giản là vào năm 1868, trước
đó 14 năm, Cao Bá Quát đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (Giáp Dần
1854)… phải chăng người đời do quá yêu Cao Chu Thần nên cứ thích tương truyền
câu “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của ông như một giai thoại để đời?
Góc
Thành Nam – Hà Nội ngày 5-12-2006
Bài 3: ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH
BÀI THƠ “PHONG KIỀU DẠ BẠC”
Bài
PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi
tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:
Đêm
đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng
tà tiếng quạ kêu sương
Lửa
chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Đến
nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở
trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát
lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy
ai là tác giả bài dịch thơ trên? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn
Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại
di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao
Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả “Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Ba
Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một đêm ngồi trong thư phòng bên bo sông
Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong kiều dạ bạc… Ông hạ bút:
Đăng
tiền độc đối thư trai
Thương
tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương
thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng
hà lai trạo tấn giang biên
Bồi
hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn
San ám nhận khách thuyền cánh phi.
Đại ý là:
Trong
phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người
xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ
đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi,
đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…
Cái
độc đáo của Đinh Nhật Thân ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt
dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu
Đế (ở Huế) “Dạ văn Diệu Đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo
thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt
Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều
dạ bạc, nguyên gốc là:
Quạ
kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa
chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thật
đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ
để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn
của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu (một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu
như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ “dịch sai”, văn chương nhất là
thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.
So
nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”,
chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa
thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng
làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận
“khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử.
Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi
là toàn bích được.
Chao
ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là
cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ)
để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì
cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?
Hà Nội
19/7/2006
Bài 4:
THĂM HÀN SAN TỰ
Đến
Tô Châu ai cũng háo hức đi thăm Hàn Sơn Tự. là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên,
pháp danh là Hàn Sơn Tử Giả xây vào khoảng năm Thiên Giám đời Lương, thuộc Nam
Triều (Thế Kỷ Vl), tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương môn, phía tây thành Cô
Tô (Nay là Tô Châu). Thiền Sư lấy tên hiệu (pháp danh) của mình đặt tên cho
chùa “Hàn Sơn Tự” để làm kỷ niệm. Từ đây thiền sư lại vân du đi chơi núi Lạnh
(Hàn San) đó là núi Thiên Thai (nơi sinh ra dòng tu Thiên Thai Tông) kết bạn với
Thiền sư Thập Đắc Phong Can. Bức hoành phi với bốn chữ đại tự “Hàn Sơn Thập Đắc”
có nghĩa là chùa Hàn Sơn lấy tên hai người là Hàn Sơn và Thập Đắc mà lưu danh.
Trải
qua nhiều biến động của các triều đại, chùa Hàn San bị binh lửa đời Thanh đốt
cháy (năm 1860), đến năm Quang Tự thứ 3 (1904) chùa được xây dựng lại với quy
mô dáng dấp như còn thấy ngày nay, gồm có: Đại điện, Tàng kinh lâu (lầu chứa
kinh), Chung lâu (lầu chuông), Phong giang lâu (lầu ngắm rừng phong bên sông),
bi lang (hành lang đặt bia). Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng thi sĩ
Trương Kế, mà theo tục lệ: các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều
tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để được tăng thêm nội lực, được
chia sẻ một chút hồn thơ… đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá,
trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời
Đường (khoảng trước năm 754).
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hoả đối sầu miên
Cô
Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Trăng
tà, tiếng qụa kêu sương
Lửa
chài, cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Nguyễn Hàm
Ninh
(Trước
đây cho là của Tản Đà dịch)
Dịch
“Thuyền ai đậu bến Cô Tô” là dịch thoát ý, dịch đúng phải là:
Trăng
lặn, sương mờ, nghe tiếng quạ
Lửa
chài cây ánh, giấc chưa yên
Cô
Tô bên mái Hàn San Tự
Đêm
muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.
Bùi Khánh Đản
Quạ
kêu, trăng xế, sương tuôn
Lửa
chài cây bến, giấc buồn ngó nhau
Chùa
Hàn San mé Tô Châu
Nửa
đêm bỗng tiếng chuông đâu đến thuyền.
Hoài Anh
Sự
ra đời của bài thơ: theo giai thoại thì Trương Kế người Tương Châu một lần đi
thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận Hà bắc nam,đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều (bến
Cây Phong) bên chùa Hàn San (Hàn San đây là tên chùa, chứ không có núi Lạnh như
một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ… vào thời bấy giờ (đời Đường) người ta
có “phân dạ chung” (chuông chia đêm) đánh vào lúc nửa đêm… Thi Sỹ buồn (vì thi
trượt) nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông(lão đánh cá) giữa trời
sương, trăng lặn lảnh tiếng quạ kêu cùng tiếng chuông chùa Hàn San nửa đêm vọng
tới… tức cảnh sinh tình, Trương Kế hạ bút hồn cất cánh thơ để lại một Phong Kiều
Dạ Bạc lưu truyền hậu thế. Cũng nhờ có thơ Trương Kế mà Hàn San Tự trở nên nổi
tiếng hấp dẫn khách năm châu bốn biển được các thi nhân viếng thăm đề vịnh. Xin
dẫn một vài ví dụ với đôi câu thơ hay: Ô
đề nguyệt lạc kiều biên tự (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) Tần Thục – đời Tống.
Lãnh tận Hàn San cổ tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) Khang
Hữu Vi – đời Thanh Còn một điều cực kỳ thú vị nữa là: theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch
thì thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt (kể cả nhạc Văn Cao) mà còn ảnh
hưởng đến cả đời sống văn hoá – ngôn ngữ của người Việt. Số là cái bát canh mà ở
Bắc Việt hiện nay vẫn gọi là “bát ô tô”, Nam Việt gọi là “tô” thì Đại Nam Quốc
Âm tự vị (Sai Gon – 1895) của Paulus Của giải thích là “bát thành Cô Tô làm ra,
bát lớn mà khéo”. Tuy nhiên ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa. Theo ý kiến
của giới ngôn ngữ học thì đó chỉ là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô theo ý thơ “Cô Tô
thành ngoại Hàn San Tự”. Người Bắc Việt nhân đó gọi là bát Cô Tô, rồi gọi chệch
là “bát ô tô”, còn dân Nam Việt gọi tắt là “bát tô”, rồi “tô”. Xem thế, đủ thấy
sức lan toả về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay!
Tô Châu
Hà Nội 6-2006
Bài 5: DỊCH SAI
Xưa
nay không thiếu gì chuyện “dịch sai”.
Có
hai lý do:
Một
là do người dịch không hiểu ý tác giả hoặc là vốn chữ nghĩa (cả hai phía ngôn
ngữ) không đủ…
Hai
là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng
(xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình); cũng không ít trường hợp “dịch sai” mà lại
thành “hay” rất được phổ biến, để người đời tưởng đó là thật, cứ dùng, không chấp
nhận bản “dịch đúng nguyên tác” – xin ví dụ:
1. Trong bài MINH LƯƠNG (vua sáng tôi hiền) của
vua Lê Thánh Tông,câu 3 + 4 là:
Ức
Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ
Mục hung trung liệt giáp binh
Dịch đúng là:
Văn
chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng
Binh
giáp Lê Khôi bụng chứa đầy
Dịch sai là:
Ức
Trai lòng sáng tựa sao khuê…
Ở
đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về
nhân cách. “Khuê tảo” là một từ kép đối với “binh giáp”. “Khuê” là ngôi sao chủ
về văn chương, “tảo” là một loại rong rêu có mầu sắc đẹp đẽ, do đó “khuê tảo” là văn chương đẹp đẽ; nếu chỉ dịch
là “sao khuê” tức là bỏ từ “tảo” một cấu thành của từ kép “khuê tảo” là làm lạc
mất nghĩa của từ kép này. Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn
Trãi (sau vụ án Lệ Chi Viên) cũng chỉ phong tặng cho là tước Trụ Quốc Tán Trù
Bá (kém cái tước Quan Phục Hầu mà vua ông (Lê Thái Tổ) đã ban, là vì “Trẫm phải
có trách nhiệm giữ gìn uy tín của triều trước (ông cha)”… Với cách dịch ví sánh
Nguyễn Trãi với sao khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi
(nhà xuất bản sử học 1963) và trong quyển “Mấy vấn đề sự nghiệp và thơ văn Nguyễn
Trãi” (nhà xuất vản khoa học 1963). Nhờ lời dịch sai như trên lại đem đến cho đời
một lời bình phẩm sáng giá, một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi. Có
lẽ vì thế mà lời dịch, lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận? (lời dịch sai đã đi
vào tâm thức của nhân dân).
2. Về bài “Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn” (mới
ra tù tập leo núi):
Vân
ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang
tâm như kính tịnh vô trần
Bồi
hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Dao
vọng Nam thiên ức cố nhân.
Nam Trân dịch:
Núi
ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng
sông gương sáng bụi không mờ
Bồi
hồi dạo bước Tây phong lĩnh
Trông
lại trời Nam, nhớ bạn xưa.
Với bút danh T.Lan (Hồ Chí Minh) tác giả đã dịch
đúng là:
Mây
ôm núi, núi ôm mây
Lòng
sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Bùi
ngùi dạo đỉnh Tây phong
Trông
về cố quốc chạnh lòng nhớ ai.
“Ức cố nhân” = nhớ ai, đây là người yêu của
Anh Ba (Nguyễn Tất Thành).
3. Chữ Hán dịch
bằng 2 chữ Việt chứa đủ cả Ý, Tình, Sự – Hồ Chí Minh quả là một thi
sỹ tài hoa,sử dụng cả hai thứ ngôn ngữ Việt – Hoa vào loại bậc thầy. Giỏi như
Nam Trân(1907-1967) 12 tuổi đã thông Hán văn trường Ốc,rồi đỗ Tú tài,làm tới Tá
Lý Bộ Lại(trước 1945) sau này làm viện phó viện văn học,tác giả nổi tiếng với tập
thơ “Huế đẹp và thơ”… Thế mà so về Thơ(Thi tài) xem ra còn thua Hồ Chí Minh 1 bậc
– tuyệt vời thay!
Góc thành Nam Hà Nội 5-4-2006
Bài 6:
ĐẾN HẠNH HOA THÔN UỐNG RƯỢU
Ai
yêu thơ Đường mà lại không thuộc bài THANH MINH của Tiểu Đỗ (Đỗ Mục, đỗ tiến sĩ
năm 828):
Thanh
minh thời tiết vũ phồn phồn
Lộ
thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá
vấn tửu gia hà xứ thị
Mục
đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn
Dịch:
Thanh
minh lất phất tiết mưa phùn
khiến
khách đường xa thấm nỗi buồn
“Quán
tửu đâu đây?… nhờ mách hộ”
Mục
đồng xa chỉ: “Hạnh Hoa thôn!”
(Khương Hữu Dụng)
Thanh
minh lất phất mưa phùn
khách
đi đường muốn đứt hồn…xót xa
hỏi
thăm”- Quán rượu đâu à?
trẻ
chăn trâu chỉ: “Hạnh Hoa thôn kìa”!
Bài
thơ bất hủ đã nghìn năm, ngày xuân các nhà thơ hay đàn đúm rủ nhau đi uống rượu
quê, lúc đương líu ríu dìu nhau tìm nơi tửu quán thường ngâm vang lên bài thơ
trên. Vậy, Hạnh Hoa thôn trong thơ Đỗ Mục là ở đâu? Để cho khách lãng du “tá vấn”
tửu gia?
Ở
bên Tầu cũng như bên ta, cái thôn Hạnh Hoa (Xóm Hoa Hạnh) đâu có ít, có khác
nào rượu làng Vân, làng Mai, xóm cây Phượng, cây Gạo… Đến “Biệt điện Bảo Đại”
cũng có ở bốn năm nơi kia. Người viết bài này, cũng đã có phen đến “Quán cây
Phượng” ở Phan Thiết ẩm tửu để rồi viết trong lúc say:
Đêm
Phan Thiết biển thì thầm to nhỏ
ta
tựa kề bên Phượng uống lân khân
57
năm xưa Hàn Mặc Tử
lầu
ông Hoàng kia ngồi với Mộng Cầm…
Bài
thơ trôi nổi cùng bạn bè sang mãi New York, Cali… Mỗi khi sa đà vào thơ và quán
rượu – kể cũng là cái thú của nghiệp thi ca.
Còn
Hạnh Hoa thôn ở bên Tầu, theo các nhà khảo cứu Trung Hoa thì có đến 3 nơi:
Một
là, ở huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây – nơi đấy có rượu ngon nổi tiếng.
Hai
là, ở phía tây huyện thành Quý Trì, tỉnh An Huy; năm 844 Đỗ Mục từng giữ chức
Thích Sử tại đây, cũng có Hạnh Hoa thôn nổi tiếng về rượu.
Ba
là, ở phía đông nam huyện Phong, tỉnh Giang Tô – nơi Đỗ Mục từng qua lại nhiều
lần. Nơi đây Tô Đông Pha (đời Tống) cũng đã từng có đến đây uống rượu và có thơ
để lại.
Chao
ôi, thơ và rượu mà lại là rượu nơi xóm quê dân giã, còn gì ấm lòng hơn khi “một
chén rượu uống trong chiều lạnh cóng” cùng ai đó ngồi bên bếp lửa bập bùng giữa
một trời mưa phùn với hoa Hạnh hoa Mai, tửu nhập thơ xuất là vậy!
Góc thành Nam Hà Nội một chiều Đông,
5-12-2006
Bài 7:
CA DAO HAY THƠ BÀNG BÁ LÂN
Hồi
năm 1994, Giáo sư Huyền Viêm (Sài Gòn) có gửi cho Nguyễn Khôi (KN) bài viết
nghĩ về “một câu ca dao”. Vừa qua Nguyễn Khôi, nhân viết cuốn: “Bàng gia vọng tộc”,
lại được gia đình Bàng thi sỹ gửi cho tập: “Thơ Bàng Bá Lân”, gồm các bài thơ
chọn lọc trong các thi phẩm: “Tiếng Thông Reo, Xưa, Tiếng Sáo Diều, Vào Thu”,
do nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê in 1957 tại Sài Gòn.
Trang
25 phần trích thơ: “Tiếng Thông Reo” có bài:
TRĂNG
QUÊ
Trời
cao, mây bạc, trăng tròn
đê
than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
diều
ai gọi gió véo von
cành
xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Sau
khi tốt nghiệp trường trung học bảo hộ (trường Bưởi -Lycée du Protectorat) đậu
Diplôme d’Etudes Primaire Superieurs, về điền trang của gia đình ở Kép (Bắc
Giang) tiếp tục học để thi Tú Tài, không có thì giờ rảnh, Bàng Bá Lân ở tuổi 22
bắt đầu ham thích chụp ảnh và làm thơ. Tháng 12-1934 Bàng Bá Lân xuất bản thi
phẩm đầu tay: “Tiếng Thông Reo” do nhà xuất bản Thanh Hoa Tùng Thư ở Hà Nội in.
Ngay
khi Tiếng Thông Reo ra đời, trên báo An Nam Nouveau ngày 11-4-1935 nhà thơ Chùa
Hương Nguyễn Nhược Pháp (sinh 1914) đã nhận xét:
“Tiếng
Thông Reo đượm một mối sầu bâng khuâng kín đáo dịu dàng, một vẻ buồn lành mạnh
và điềm đạm.
Nàng
thơ của Bàng Bá Lân không phải – như người ta tưởng – người ông yêu dấu mà là
Cánh đồng quê với Luỹ tre xanh.
Bàng Bá Lân có thể tự hào là
một trong những nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết hưởng thú quê.”
Hai
câu kết của bài Trăng quê ở trên, lâu nay đã được dân gian hoá thành ca dao:
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Từ câu thơ của Bàng Bá Lân:
Sao
cô lại múc trăng vàng đổ đi?
Ca dao đã biến đổi chút ít thành:
Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Như
ta đã biết: ca dao là thơ dân gian, có nội dung trữ tình (và trào phúng), ta có
thể hát, ngâm, đọc… ở câu thơ này chữ ánh xem ra có vẻ phi lý, nhưng nó lại làm
cho hình tượng thơ đẹp hẳn lên – mà đẹp lại là tuyệt đỉnh của thơ.
Có
ý kiến cho rằng thêm chữ ánh làm non hẳn bài thơ, nhưng còn giữ được chữ múc
nghĩa là còn giữ được gần trọn thi vị hai câu thơ này.
Tất
cả duyên dáng và thi vị là ở chữ múc và đổ, nó giúp ta hình dung được nhũng động
tác (tát nước đêm), gợi cho ta cái tiếng xich xòm. Bài thơ bốn câu trên là tả cảnh
sáng trăng ở thôn quê để xuống dưới có thể hạ chữ múc trăng mà không đột ngột.
Chữ lại tỏ ý trách móc: Trăng đẹp thế mà sao cô lại vô tình múc đổ đi?
Ta
hãy trở lại xem xét hai câu thơ độc đáo này
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô lại múc…?
Đọc
đến đây, theo tư duy thuận chiều là đã tát nước ở câu lục (6), nên ta dễ nghĩ vế
tiếp theo chữ múc thường hạ chữ nước – Thế nhưng nhà thơ đã không viết xuôi như
vậy mà là : trăng vàng đổ đi? thì có sự vênh hẳn khỏi sự đoán trước thông thường,
Bàng Bá Lân đã dùng trăng vàng đặt đắc địa vào chỗ vốn là của nước, làm cho sự
ước đoán (của bạn đọc) bị hẫng – và do đó lượng thông tin dành cho từ này thật
là to lớn, chúng ta (bạn đọc) thì bị bất ngờ và cái kết hợp giả định đó (múc +
trăng vàng) đã cho ta sự hứng khởi (hồn chữ có cánh) để thưởng thức một hình tượng
thơ Đẹp của một sự mới mẻ múc trăng vàng – một cảm xúc đầy tính thẩm mỹ của
thơ.
Bàng
Bá Lân, Nguyễn Nhược Pháp đều đã đi vào thiên cổ, nhung thơ còn mãi với đời …
theo lẽ công bằng thì: “Cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar” 4 chữ múc ánh
trăng vàng, vừa là của nhà thơ vừa là của dân gian, Đẹp – để cho ta bâng khuâng
với hồn dân tộc, âu cũng là cái độc đáo của Thơ Việt nam là thế chăng?
Góc
thành Nam Hà Nội ngày 26-12-2006
Bài 8:
ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH BÀI THƠ
“PHONG KIỀU DẠ BẠC”
Bài
PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi
tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:
Đêm
đỗ thuyền ở bến Phong Kiều
Trăng
tà tiếng quạ kêu sương
Lửa
chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Đến
nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở
trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát
lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy
ai là tác giả bài dịch thơ trên ? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn
Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại
di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ
thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả
“Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Bá Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một
đêm ngồi trong thư phòng bên bờ sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong
kiều dạ bạc… Ông hạ bút:
Đăng
tiền độc đối thư trai
Thương
tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương
thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tòng
hà lai trạo tấn giang biên
Bồi
hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn
San ám nhận khách thuyền cánh phi.
Đại ý là:
Trong
phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người
xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ
đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi,
đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…
Cái
độc đáo của Đinh Nhật Thuận ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt
dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu
Đế (ở Huế) “Dạ văn diệu đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo
thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt
Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều
dạ bạc, nguyên gốc là:
Quạ
kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa
chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thật
đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ
để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn
của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu (một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu
như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ “dịch sai”, văn chương nhất là
thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.
So
nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”,
chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa
thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng
làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận
“khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử.
Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi
là toàn bích được.
Chao
ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là
cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ)
để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì
cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?
Hà Nội 19/7/2006
Bài 9:
MAO TRẠCH ĐÔNG ĐẶT TÊN VỢ TỪ THƠ ĐƯỜNG
Mao
Trạch Đông sinh năm 1893 quê ở Hồ Nam Trung Quốc. Sinh thời Mao Trạch đông có 3
người vợ. Vợ thứ nhất ở quê do cha mẹ lấy cho. Vợ thứ hai là nữ chiến sỹ hồng
quân, lấy nhau qua cuộc vạn lý truòng chinh... Vợ thứ hai đi chữa bệnh ở Liên
Xô thì Mao Trạch Đông làm quen với cô diễn viên Lâm Bình quê Thượng Hải đã ly dị
chồng. Sau đó hai người lấy nhau.
Xuất
phát từ hai câu thơ của Tiền Khởi:
Khúc
chung nhân bất kiến
Giang
thuọng sổ phong thanh
mà Mao Trạch Đông đặt tên cho vợ thứ 3 vốn là
Lam Bình thành Giang Thanh.
Tương
truyền tác giả câu thơ trên quê ở Chiết Giang. Một lần đáp thuyền lên mạn Bắc,
đến Trường An dự thi. Đến Nhạc Châu (quê Mao Trạch Đông). Tác giả dùng thuyền
lên bờ thăm danh thắng cổ tích gần hồ Động Đình. Màn đêm buông xuống chị Hằng
nhô lên mặt nuóc. Thi sĩ nổi hứng thơ, khoác áo ra khỏi nhà, ngâm ở trong đình
Chiết Liễu. Tương truyền, lúc thi sỹ ngâm thơ, bỗng nghe từ trong Viện Lạc gần
bên cũng vọng ra tiếng ngâm thơ. Thi sỹ nín thở lắng nghe, nhưng cũng chỉ nghe
được hai câu:
Khúc
chung nhân bất kiến hư
Giang
thượng sổ phong thanh
(Người
đàn ở đâu chẳng thấy
Trên
sông nổi mấy ngọn núi xanh)
Thi
sỹ rất ngạc nhiên, tán thưởng 2 câu thơ đã tả đượcc cái thần diệu ảo ảo thực thực
mơ hồ trong cái tĩnh lặng trên dòng sông trăng như dải lụa nhuộm sắc núi xanh.
Thy sỹ vén tay áo, cất bước đến Viện bên mà không thấy ai. Thi sỹ thầm nghĩ chắc
là mình gặp quỷ thần, sợ đến nỗi hồn phiêu phách lạc, cố chạy về phòng, nhưng
đuổi theo vẫn là tiếng ngâm 2 câu thơ của quỷ thần! Năm 750, thi sĩ đi thi tiến
sỹ ở Trường An. Kết thúc bài thi của mình, thi sĩ bỗng nghe vẳng bên tai câu
thơ thần
Khúc
chung nhân bất kiến hư
Giang
thượng sổ phong thanh
Dùng
hai câu thơ thần này, thi sỹ kết thúc bài thi của mình.
Bài
thi tiến sỹ của ông được đánh giá rất cao.
Cả
bài thơ có hai câu thơ thần này, Nguyễn Khôi xin tạm dịch như sau:
TƯƠNG LINH ĐÁNH ĐÀN SẮT
Tay
giỏi đánh đàn sắt
Thường
nghe Thái tử Linh
Khiến
Phùng Di tụ múa
Khách
Sở khó vô tình
Điệu
khổ tê vàng đá
Âm
vang cõi u minh
Thương
Ngô hờn mến mộ
Bạch
chỉ phòng hương linh
Khúc
tàn, người chẳng thấy
Trên
sông mấy non xanh
Điều
kỳ lạ là hơn 1200 năm sau, không biết có phải ma đưa lối quỷ dẫn đường mà Mao
Trạch Đông lại lấy chữ từ hai câu thơ quỷ thần đó để đặt tên cho vợ thứ 3 của
mình vốn là diễn viên người Thượng Hải tên Lâm Bình thành Giang Thanh.
Và
kỳ lạ thay Giang Thanh cũng kết cục bi thảm như Dương Quý Phi người đẹp của ông
vua tài hoa Đường Minh Hoàng (cùng thời thi sỹ thi tiến sỹ Tiền Khởi viết hai
câu thơ quỷ thần trên).
Bài 10:
TRỞ VỀ VỚI BẢN GỐC THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
Cũng
giống như “thơ Bút Tre” hiện nay, từ một type thơ “Bút Tre thật” dân gian đã
sáng tác cả trăm, ngàn câu thơ “Bút Tre mới”… Thơ nôm Hồ Xuân Hương đi vào cuộc
sống dân Việt Nam ta đã ngót 200 năm (bản in sớm nhất là “Xuân Hương di cảo” in
năm 1914; các bản khắc ván “Xuân Hương thi tập” in năm 1921, in năm 1923;bản chép tay “Quốc Văn Tùng Ký” soạn vào thời Tự
Đức đến đầu Duy Tân; các bản chép tay “Xuân Hương thi sao”, “tạp thảo tập”, “Quế
Sơn thi tập”, “Xuân Hương thi vịnh”,“Liệt truyện thi ngâm” và “Lĩnh Nam quần hiền
văn thi văn diễn âm tập”).Vậy bài nào là chính gốc thơ Hồ Xuân Hương trong số
213 bài đang được lưu hành khá rộng rãi?
Sau
hơn 40 năm âm thầm ấp ủ, nghiền ngẫm… Giáo sư Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch (Người
cùng quê xứ Đoài với Phó bảng Kiều Oánh Mậu – người có công lớn trong việc hiệu
đính truyện Kiều) – một chuyên gia hàng đầu về chữ Nôm, qua nhà xuất bản văn học,
ông đã công bố cuốn “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương” với 84 bài thơ, câu đối. Có thể
nói: cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ, đúng chuẩn nhất về
văn bản, dịch nghĩa, dịch thơ, khảo cứu, chú giải, chú thích chữ Nôm, đáp ứng
lòng ái mộ của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của Bà chúa thơ Nôm
Việt Nam.
Tiếp
cận thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học, cuốn sách của Kiều Thu Hoạch, chí ít cũng
cho chúng ta 3 thông tin rất có giá trị:
-
Một là: thời điểm xuất hiện “Xuân Hương thi tập” là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)
-
Hai là, lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.
-
Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ, còn được người đời (qua văn bản) gọi
bằng “cô”.
Qua
các văn bản chữ Nôm xưa, Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán
cho Nữ Sỹ như các bài: “Đánh cờ người”,
“tát nước”, “cái nợ chồng con”, “đánh đu”, ”bà đanh”, “đồng tiền hoẻn”, “ông cử
võ”…
Xin
giới thiệu một số bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương (bản gốc) để bạn đọc cùng thưởng thức:
1. VỊNH THĂNG LONG HOÀI CỔ
Ngân
ngất tầng mây một dải cờ
Kinh
thành ngày trước, tỉnh bây giờ
Tượng
đồng Trấn Vũ hương còn ngát
Bia
đá Khuê Văn chữ chửa mờ
Bảo
Tháp lơ thơ chòm cỏ mới
Hồ
sông lai láng bóng trăng xưa
Nào
ai Cố lão ra đây hỏi
Chốn
cũ phồn hoa đã phải chưa?
2. CHƠI KHÁN ĐÀI
Êm
ái chiều xuân tới khán đài
Lâng
lâng chẳng bợn chút trần ai
Bốn
mùa triêu mộ chuông gầm sóng
Một
vũng tang thương nước lộn trời
Bể
ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn
ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào
là cực lạc là đâu tá
Cực
lạc là đây chín rõ mười.
3. CANH KHUYA
Canh
khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ
cái hồng nhan mấy nước non
Chén
rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên
ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm
toạc chân mây đá mấy chòm
Ngán
nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh
tình son trẻ tí con con.
4. LẤY CHỒNG CHUNG
Kẻ
đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém
cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm
chừng mười họa hay chăng chớ
Một
tháng đôi lần có cũng không
Cố
đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm
bằng làm mướn mướn không công
Nỗi
này ví biết dường này nhỉ
Thời
trước thôi đành ở vậy xong.
5. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA
Cả
nể cho nên hóa dở dang
Sự
này có thấu hỡi chăng chàng
Duyên
thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận
liễu sao mà nảy nét ngang
Cái
tội trăm năm chàng chịu cả
Chữ
tình một khối thiếp xin mang
Quản
chi miệng thế lời chênh lệch
Chẳng
thế nhưng mà thế mấy ngoan.
6. THƠ THỊ ĐỂU
Kén
chọn làm chi thế ối anh
Lấy
ai khuynh quốc lại khuynh thành
Vô
duyên nên nỗi người chê “đểu” (1)
Có
đẹp chăng thời gái ở tranh
Ghét
mặt cục vàng ra cục đất
Tắt
đèn nhà ngói bẵng nhà gianh
Thay
lời mượn bút đem thư gửi
Nghĩ
lại sao cho để được đành
(1)
Nguyên văn chữ Nôm là “điểu” là chim, có dấu cá nháy – theo tự điển Việt Pháp
và Việt Nam tự điển (1931) thì “đểu” có nghĩa là hạng người hèn mạt/ mạt hạng.
7. CHI CHI CHUYỆN ẤY
Chi
chi chuyện ấy đã đành lòng
Vó
ký phen này quyết thẳng rong
Non
nước chơi hoài non nước đó
Gió
giăng nào phải gió giăng không
Mặt
càng đối mặt tình ngao ngán
Tay
chửa rời tay bước ngại ngùng
Lão
Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi
Chén
đồng xin hẹn khắc đêm đông.
8. NÚI BA ĐÈO
Một
đèo một đèo lại một đèo
Khen
ai khéo vẽ cảnh cheo leo
Cửa
son tía ngắt lơ thơ móc
Đường
đá xanh rì lún phún rêu
Phưởng
phất chồi thông cơn gió tốc
Mịt
mờ ngọn cỏ lúc sương reo
Hiền
nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi
gối chồn chân cũng muốn trèo.
9. MIẾU SẦM THÁI THÚ
Ghé
mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa
đền Thái Thú đứng cheo leo
Ví
đây đổi phận làm trai được
Thì
sự anh hùng há bấy nhiêu.
10. KHÓC TỔNG CÓC
Hỡi
chàng ôi hỡi chàng ôi
Thiếp
bén duyên chàng có thế thôi
Nòng
nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn
vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
11. KHÓC QUAN VĨNH TƯỜNG
Trăm
năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi
Cái
nợ phù sinh có thế thôi
Chôn
chặt văn chương ba thước đất
Ném
tung hồ thỉ bốn phương trời
Nắm
xương dưới đất chau mày khóc
Hòn
máu trên tay mỉm miệng cười
Đã
thế thời thôi cho mát mẻ
Trăm
năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.
12. TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ
Dắt
díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng
đòi học nói nói không nên
Ai
về nhắn nhủ phường lòi tói
Muốn
sống đem vôi quét trả đền.
13. VỊNH QUẢ CHUÔNG
Năm
ba thằng ngọng đứng xem chuông
Nó
bảo nhau rằng ấy ái uông.
14. CHƠI HOA
Đã
chót chơi hoa phải cố trèo
Trèo
lên trèo xuống mỏi xương kheo
Cành
la cành bổng vin co vít
Bông
chín bông xanh để lộn phèo.
15.VÔ ÂM NỮ (1)
(Gái
không âm hộ)
Mười
hai bà mụ ghét chi nhau
Đem
cái xuân tình cắm ở đâu
Rúc
rích thây cha con chuột nhắt
Vo
ve mặc mẹ cái ong bầu
Nào
ai biết được vông hay chóc
Nọ
kẻ chia ra cuống mấy đầu
Thôi
thế thời thôi thôi cũng rảnh
Trăm
năm càng khỏi tiếng làm dâu.
(1)
Các bản khác ghi là “Quan thị”
16. NGÃ TỐC VÁY LÀM THƠ TỰ VỊNH
Vén đám mây lên tỏ mặt trời
Lác
coi từng đám rõ từng nơi
Giang
sơn đâu đó nhô đầu dậy
Hoa
cỏ quen hơi mỉm miệng cười.
17. BÙN BẮN LÊN ĐỒ
Xuân Hương đi đường lội, bùn bắn lên đến “đồ”,
tức cảnh vịnh:
Nê
ninh thượng thức cao thâm xứ
Mạc
quải anh hùng lưỡng thủ mô
(Bùn
kia còn biết nơi cao thẳm
Chẳng
trách anh hùng thích mó tay).
18. ĐI ĐÁI BÙN NẨY
Quân
tử anh hùng đâu vắng tá
Để
cho nê thổ nảy chơi xuân.
19. XƯỚNG HỌA VỚI QUAN TẾ
TỬU HỌ PHẠM
(Bài
2)
Xuân
Hương xướng:
Kìa
ai tỉnh, kìa ai say
Kìa
ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Khoan
khoan xin hãy dừng tay lại
Chớ
mó hang hùm nữa mất tay.
Họ Phạm (Chiêu Hổ) họa lại:
Nào
ai tỉnh nào ai say
Nào
ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Ví
dầu hang chẳng cho ai mó
Sao
có hùm con bỗng trốc tay.
20. Câu đối CHƠI ĐÈO NGANG
–
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá;
–
Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.
Thật vui, “cái gì của Xuân Hương trả lại
cho Xuân Hương” – Giáo sư Tiến sỹ Kiều Thu Hoạch đã dành trên 40 năm trời để
Làm ĐƯỢC cái công việc có giá trị đích thực này – thật là đáng kính trọng.
Góc thành Nam - Hà Nội 30-3-2008
Nguyễn Khôi
Bài 11:
LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THƠ HAY
(thử
nhắc lại về bếp núc nghề thơ)
Ai
làm thơ chẳng mong có thơ hay: một bài, một câu, thậm chí một chữ độc đáo nổi
tiếng để đời (ví dụ: chữ (từ) SÁNG trong câu :”một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
của Khương Hữu Dụng) đó là những hào quang của chữ nghĩa làm cho thơ bất hủ.Đó
là trạng thái tâm hồn làm bừng phát tình yêu, khởi điểm của một ý thơ.
Người
làm thơ trước tiên phải có THI HỨNG (nói theo Max Jacob thì đó là trực giác,
cái đó gọi là sự quyến rũ). Khi nội tâm gặp cảnh sinh tình bật ra cái HỨNG (sự
khởi phát bột trào thành THƠ). Trước thời điểm đó là” chút linh cầu mãi không về,
phân vân giấy trắng chưa nề mực đen” như Hồ Dzếnh đã tả, cái phút hứng chưa đến
ấy được Tản Đà ghi lại bằng hình ảnh “đêm qua ra ra vào vào, quẩn quanh chỉ tốn
thuốc lào vì THƠ”. Và “TỨ THƠ chỉ có khi cưỡi lừa đi trên cầu BÁ dưới trời tuyết”
như Trịnh Khải xưa đã nói. Đó là vụ nổ Big-Bang để hình thành ra vũ trụ – cái ý
tưởng vụt trào ấy trong hồn tung ra TỨ THƠ. Cái TỨ là sự linh ứng – nghĩ ra,
phát hiện ra một cái gì đó nó co thể khiến cho cái THẦN (tinh thần) của nhà thơ
cảm nhận thấy được sự vật để viết ra những câu thơ (nội dung) mang tư tưởng và
tình cảm của tác giả. Ý là do suy nghĩ mà ra. LỜI là do Ý mà đến. Nhà thi sĩ bậc
thầy (ông Hoàng của thi ca nước Việt) đã từng dạy “TỨ là hình tượng thơ diễn đạt
được một ý trọn vẹn, từ chỗ có Ý sẽ đẻ ra TỨ, có TỨ tất có Ý, nhưng có Ý chưa hẳn
có TỨ. Ví dụ: Ý là muốn nói tới sự say đắm si mê của chàng với nàng (đó mới là
chung chung chưa rõ ràng), chỉ đến khi thi sĩ thể hiện bằng một hình tượng thơ
cụ thể:
Mắt
em là một dòng sông
Thuyền
ta bơi lặng trong dòng mắt em.
(Lưu Trọng Lư)
thì đã là một TỨ thơ độc đáo.
Có Ý (ý tưởng) nhà thơ phải tìm tòi sáng tạo để dựng TỨ( như khung nhà, kiểu
dáng nhà trong cái ý muốn xây nhà) để thể hiện được sự trọn vẹn của Ý, gợi lên
những cảm hứng gây xúc động lòng người, tạo ra những mối liên tưởng rộng mở, có
giá trị thẩm mỹ cao(biến cái mông lung chưa có hình thù gì trong trí não thành
hình tượng thơ, cấp cho nó một khuôn khổ nhất định).Thi sỹ vắt nặn ra TỨ THƠ
khác nào nghệ nhân vắt nặn ra đồ gốm sứ vậy.Những câu thơ HAY thường là đã mang
trọn vẹn một TỨ THƠ:
Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi
ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên)
Không
ở rể mà vẫn là rể quý
Để
mỗi năm lại lên Tết Chiềng Ly
(NK)
Dù
tản mát khắp chân trời góc bể
Còn
tấc lòng vẫn gửi gắm nơi quê.
(NK)
Tháng
giêng ngúng nguẩy thẹn thò
Bàn
tay ủ ấm đôi vò rượu tăm.
(Lê Đình Cánh)
Khi
em đến gương trăng vừa lặn mất
Em
dịu hiền tươi mát một vầng trăng.
(NK)
Thầy
giáo dạy NK hồi cấp 3 đã nói: đọc thơ, về thực chất là ta đang thưởng thức một
TỨ THƠ. TỨ trong toàn bài là một hình tượng THƠ xuyên suốt cả bài thơ, thể hiện
tư tưởng nghệ thuật của bài thơ. TỨ THƠ mang đặc điểm của cách nhìn, cách cảm,
cách nghĩ của nhà thơ.(mỗi người một cách).
Như
vậy công việc quan trọng cốt lõi của người làm thơ là phải tìm được TỨ THƠ (lao
tâm khổ tứ là vì thế) – nó tương tự như nhà tiểu thuyết phải có “cốt truyện” vậy.Đầu
để bài thơ nhiều khi đã chứa đủ cái TỨ THƠ trong đó, nói cách khác là: đầu đề
thơ ôm trùm TỨ THƠ, khiến người đời đọc xong nhơ mãi, biến thành ấn tượng ăn
sâu vào tâm hồn người đọc (Bóng cây Kơnia, Núi đôi, Gương mặt quê hương, Cuộc
chia ly mầu đỏ…)
Khi
sáng tác cấu TỨ (vắt nặn ra TỨ THƠ) người làm thơ thường có hai cái lo: ai đó
mà mạch suy nghĩ bế tắc thường thơ nghèo nàn . Kẻ lắm lời thường là thơ lộn xộn.
Hiểu biết rộng thì cứu được sự nghèo nàn. Nắm lấy một điểm (ý chính) để xâu suốt
tất cả, đó là thứ thuốc chữa bệnh lộn xộn.Tình cảm tư tưởng của bài thơ vô cùng
phức tạp và khó nắm bắt. Hình thức của nó cũng khác nhau và thay đổi.Có khi lời
thô kệch lại nảy sinh cái ý (Tứ) hay, có khi việc tầm thường làm tóat ra ý mới.
Một
bài thơ đạt tiêu chí HAY phải là ý mới, tứ lạ, đồng thời còn lệ thuộc vào cái
tài hoa trong việc diễn đạt tình cảm tư tưởng với ngôn từ điêu luyện(sáng tạo từ
mới), không lặp lại các chữ (từ) đã sáo mòn cũng như thủ pháp triển khai cấu TỨ
sao cho hình tượng thơ sống động…Trong một bài thơ phải có những câu đột xuất,
chữ độc đáo (nhãn tự- chữ mắt) đầy hình tượng, gây ấn tượng sâu sắc vào lòng
người đọc để cho bài thơ bất tử,trẻ mãi không già.
Tóm
lại TỨ THƠ là đặc sản của tâm hồn thi sỹ, mỗi người tạo ra cái riêng, cái cốt
cách độc đáo của mình với một ngôn ngữ giọng điệu không giống ai. TỨ THƠ là rường
cột kết cấu nên bài thơ làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ (chứa đựng triết
lý sâu sắc nội dung có tầm bao quát lớn).
Cái
“Siêu” của một số nhà thơ có tay nghề cao là đã biết cắt tỉa bớt lá cành rườm
rà của một Ý thơ để làm bật TỨ là phần tinh túy nhất của bài thơ (ví như bông
hoa) để thêm phần rực rỡ (Là ngụy trang, Ngọn đèn đứng gác, Dáng đứng Việt
Nam).
Theo
thiển ý của NK thì ngoài những lý sự trên, người làm thơ muốn có thơ HAY phải
là người có tâm hồn, nung nấu, ấp ủ một cái gì đó để rồi bất chợt tức cảnh sinh
tình bật ra thi hứng, tạo ra TỨ THƠ…(chứ không phải cố nghĩ, cố rặn ra thơ,
ghép vần rồi tự vỗ đùi “tuyệt tác!”). THƠ HAY không lệ thuộc vào thể loại cũ mới,
vấn đề là có hồn hay vô hồn, ý mới , tứ lạ và có ĐẸP hay không? và THƠ HAY còn
phải là thơ để cho người đời ngâm, đọc một cách thích thú nữa kia. Nói thì dễ,
làm thì khó, thôi thì:
Ta
dù lếch thếch lôi thôi
Mong
thơ sinh hạ cho đôi ba dòng.
(Nguyễn Duy)
Hà
Nội ngày 13 tháng Giêng năm 2002
Bài 12:
TIÊU CHÍ TỰ ĐÁNH GIÁ (THẨM ĐỊNH) MÌNH ĐÃ LÀ NHÀ THƠ HAY CHƯA?
Anh
chỉ là thi sĩ
Khi
luyện văn thành thơ
Hãy
sáng tác những loại thể lớn như 5 chữ, lục bát, 7 chữ, 8 chữ, để thấy được độ
sai lệch rõ rệt về cấp bậc giữa hoài niệm và vè, dân tộc và diễn ca, hàn lâm và
vịnh, hoành tráng và tấu, có thể diễn trên đồ hình sau:
A
5 chữ B
Vè
<——————–> Hoài niệm
Lục
bát
Diễn
ca <————–> Dân tộc
7
chữ
Vịnh
<—————–> Hàn Lâm
8
chữ
Tấu
<————— –> Hoành tráng
Qua
đó sẽ thấy được tầm cỡ (đẳng cấp) nhà thơ.
Cái
mạnh của thơ 5 chữ là chất hoài niệm
Ví
dụ:
Tháng
giêng bụi mù trời
Tháng
giêng buồn một thuở
Thèm
một hạt mưa rơi
Thấm
ướt lời than thở.
(NK – Tháng giêng Buôn Ma Thuột)
Hễ
non tay thì sẽ thành Vè.
Ở
tầm một khúc ca dao:
Con
trời chẳng biết mặt cha
Lớn
lên trung dũng tài ba lạ thường.
(NK – con gái Phủ Từ)
Đến
lục bát là rõ rệt nhất: làm được tốt thì đấy là tính dân tộc, còn không thì chỉ
ở tầm diễn ca.Đó là hồn thơ dân tộc, nói như Giáo sư Cao Xuân Huy thì quân thế
biểu hiện trong niêm luật lục bát thật là bằng phẳng, không gì lật đổ được,
khác với quân thế của thơ Đường co khi rất chênh vênh nguy hiểm. Có người nói:
“cho tôi xin một ít lục bát, tôi sẽ thưa: anh có phải là nhà thơ thứ thiệt hay
không?”
Lá
hồng rơi lặng ngõ thuôn
Sương
trinh rơi kín từ nguồn yêu thương
Chỉ
một câu “sương trinh…” đã đủ đưa Xuân Diệu lên hàng Siêu thi sĩ rồi.
Thứ
lục bát “đanh” đến lạnh người của tác giả”độc hành ca”, theo kiểu”nẻo về chật
chội áo cơm” thì đến nay vẫn chưa có ai viết nổi.Đỉnh cao la Nguyễn Du, còn rơi
tõm xuống loại “thơ Bút Tre”:
Hoan
hô Đại tướng Võ Nguyên
Giáp
ta thắng trận Điện Biên trở về.
Thì
ôi thôi cho thơ rồi!
Cái
mạnh của 7 chữ là nét Hàn lâm:
Vượt
biển, chơi hồ, trở quá giang
Bỗng
dưng lại thấy nhớ ao làng
Cái
đêm hè ấy ai ra tắm
Để
cả bầu trời phải tắt trăng.
(NK – Ao làng)
Yếu
sức thì rơi vào Vịnh.
Cái
mạnh của 8 chữ là nét hoành tráng:
Thôi,
cứ để cho thời gian gió thổi
Gieo
vào lòng một chút sóng Sông Lô.
(NK – Gửi Tuyên Quang)
Nhưng
nếu làm không khéo thì thành ra Tấu.
Ôi
biết bao nhiêu người say sưa làm văn vần, giỏi diễn ca cứ tưởng mình là nhà thơ
đích thực. Thơ HAY phải có ý mới, tứ lạ, hình tượng rõ, tình đậm, ngữ nghĩa đổi
mới và chứa chất đầy tâm hồn thời đại kia?
(NK
Biên soạn lại theo Nguyễn Phan Cảnh để tự thẩm định lại thơ của mình)
Đình Bảng Xuân Tân Tỵ 2001
Bài 13: ĐỌC LẠI BÀI TỰA
TRUYỆN KIỀU NĂM 1820 CỦA TIÊN PHONG MỘNG LIÊN ĐƯỜNG CHỦ NHÂN
Ngày
trước, các ấn phẩm in truyện Kiều (đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du, mở đầu
thường có hai bài tựa:
–
Bài thứ nhất của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân (1820)
–
Bài thứ hai của Phong Tuyết chủ nhân Thập thanh thị (1828)
Cùng
bài thơ chữ Hán (đề từ – thi vân) của Lương Đường Phạm Lập Trai (Phạm Quý
Thích)
Về
bài “tựa thứ nhất” của Mộng Liên Đường, viết vào năm 1820, đây là năm Canh
thìn, Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mệnh nối ngôi – đồng thời cũng là năm Đại
thi hào lâm bệnh qua đời ở kinh đô Huế trong một nạn dịch bệnh đương thời làm
chết hàng vạn người. Nói theo kiểu cổ nhân: Mộng Liên Đường đề “tựa” Đoạn trường
tân thanh mà Nguyễn Du viết vào khoảng năm 1814 sau khi đi sứ nhà Thanh(bên
Tàu) về…
Nghĩa
là truyện Kiều đã trình làng được 6 năm, tác giả của nó cũng vừa qua đời; người
viết có đủ điều kiện và xúc động ở thời điểm vừa “cái quan định luận” để đề “tựa”.
Bài viết ngắn gọn, xúc tích dài chưa đầy hai trang giấy mà có nhiều câu người đời
sau dẫn đi dẫn lại. Mở đầu bài “tựa”, Mộng Liên Đường lý giải rất khéo về hai
chữ “đoạn trường” : “trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào
cũng có việc khảm kha bất bình.Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả
hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy”.
Sau
khi nói về cái lý do mà Tố Như tử đem truyện Thúy Kiều chép trong Lục Phong
Tình rồi “dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả tình đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời
thì tài nào có cái bút lực ấy?…
Ta
lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh
với bức giao thiên, song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu của hai chữ tài tình, tuy
khác đời mà chung một dạng. May được nối ở đằng sau quyển “Tân thanh” của Tố
Như tử, cũng là một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.”
Tháng
hai, niên hiệu Minh Mạng (1820)
Viết ở Thán hoa hiên đất Hạc Giang
TIÊN
PHONG
Mộng Liên Đường chủ nhân
Tiên
Phong và Mộng Liên Đường (đình) là tên hiệu của Quan chức – nhà văn Nguyễn Đăng
Tuyển(1795-1880) hậu duệ Trạng Bịu (Nguyễn Đăng Đạo 1651- 1719) quê ở thôn Thượng(tên
nôm là làng Bịu Thượng) xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh.
–
Nguyễn Đăng Đạo, đỗ Trạng Nguyên năm 33 tuổi, niên hiệu Chính Hòa, đời Vua Lê
Hy Tông 1683. Năm 1687 ông được cử đi sứ sang Tàu vào chầu Vua Khang Hy nhà
Thanh.
Do
đối đáp, thi thố văn tài với sứ thần các nước, có các bài đệ lên ngự lãm, được
Vua Khang Hy (một vị Vua nổi tiếng hay chữ) phê cho Trạng Bịu: “Bắc Triều đệ nhất
Trạng Nguyên”. Theo sử sách: ông là người trung thực, thương dân, làm tới chức
Tham Tụng(Tể Tướng). Ông mất năm Vĩnh Thịnh thứ 15 – vua Lê Dụ Tông phong tặng
Lại Bộ thượng thư, Thọ quận công, ban cho bốn chữ “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” và
một đôi câu đối:
Tiến
sĩ, thượng thư, thiên hạ hữu
Trạng
Nguyên, tể tướng, thế gian vô.
–
Ông nội của Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Vỹ, đỗ tiến sỹ năm Bảo Thái (1720 –
1729) đời Lê, làm quan tới hàm Thiếu Bảo, tước Kế Thiện hầu .
–
Cha Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Chiểu đỗ hương cống(cử nhân) làm quan đến Hồng
Lô tự khanh. Cuối đời Lê loạn lạc ông đưa vợ con lánh lên xứ Đoài, làm nhà thuộc
huyện Tiên Phong, trấn Sơn Tây. Thời Lê huyện lỵ Tiên Phong đóng ở xã La Phẩm(nay
thuộc huyện Ba Vì – Hà Nội).
–
Nguyễn Đăng Tuyển từng đỗ Tú Tài được bổ làm giám sinh ở Quốc Tử Giám. Năm Minh
Mệnh thứ 17(1836) được bổ làm tri huyện Vị Xuyên(Tuyên Quang) sau chuyên về
Kinh làm chủ sự ở Bộ Hộ rồi được thăng Thừa Chỉ, Thị Độc. Ông là người “vì văn
học mà được Vua biết đến” thường được Vua Tự Đức cho ngồi bên cạnh dự các kỳ
thi do Vua chủ trì, ông đã soạn các quyển”Đào hoa mộng ký”, “Nam thị quốc
phong”, dâng Vua xem, được tán thưởng, chuyển làm trước tác rồi được sung chức
Biên Tu Quốc Sử Quán. Năm 1856, ông được bổ Tri Phủ Thuận Thành(Bắc Ninh) rồi
xin hưu trí. Tuy đã về hưu,ông vẫn được
Vua
cho người về thăm hỏi, lại sai làm Vịnh sử ca.Vào dịp Vua 50 tuổi(ngũ tuần đại
khánh) , ông dâng thơ tụng, được ban thưởng, vài năm sau thì mất, thọ 86 tuổi.
Nguyễn
Đăng Tuyển – một cây bút tài hoa, ông lưu danh cùng Tố Như tử với tên hiệu
“Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân” (bài tựa) được dịch in trong sách “Truyện
Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in năm 1925 và tái bản nhiều
lần.Nay đọc lại lời bình sâu sắc của ông”xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh
dậy mà căn nguyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh ấy gẩy xong mà oán hận vẫn
chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn
tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai
đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên”đoạn
trường tân thanh” cũng phải.”
Nay
đã qua 189 năm, đọc lại bài tựa truyện Kiều của Mộng Liên Đường, kẻ hậu sinh
(NK này) vướng duyên hàn mặc(bút mực) vẫn thấy văn chương của bậc tiền bối như
nước chảy mây trôi, sâu đậm tình người truyền lại cho con cháu cái tài, cái
tình theo cánh Rồng bay lên quả là hứng khởi biết chừng nào?
Cẩn
Bút
Góc
thành nam Hà Nội, 2-9-2009
Bài 14:
NHÀ THƠ HOÀNG CẦM
Thi
sỹ sinh đêm 12 tháng giêng năm Nhâm Tuất (tháng 2 – 1922) đêm trước của hội Lim
quan họ; mất lúc 9h sáng ngày mùng 6-5-2010 tại Hà Nội.
Tên
khai sinh là Bùi Tằng Việt (Họ Bùi, ghép tên làng nơi sinh: Phúc Tằng, huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang). Quên cha: thôn Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh(cụ thân sinh là đồ Nho có tham gia Đông du và Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ là
chị hai quan họ làng Bịu Xim, huyện Tiên
Du tỉnh Bắc Ninh.
Hoàng
Cầm nổi tiếng ngay từ năm 1942 với kịch thơ Kiều Loan; thời kháng chiến chống
Pháp, nổi tiếng với bài thơ dài “Bên kia sông Đuống”(1948); và hình như câu thơ
mở đầu thi phẩm tuyệt tác này (đầy chất quan họ và hồn quê Kinh Bắc) : “Em ơi
buồn làm chi…” như một tuyên ngôn đời, tuyên ngôn thơ Hoàng Cầm, rất định mệnh,
rất tiên chi của một đấng tài hoa xứ Kinh Bắc rất hiểu đời, vượt trên mọi cái
trầm luân của đời thường, cứ “đường ta ta cứ đi”, đi dưới “mưa Thuận Thành”, đi
tìm “lá diêu bông”… luôn đổi mới, cách tân thi pháp để có những vần thơ bất tử,
đọc lên nghe xao xuyến lòng người như ” váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” để
“từ thuở ấy/em cầm chiếc lá/đi đầu non cuối bể/gió quê vi vút gọi… diêu bông hỡi…
ới diêu bông! “
Thơ
Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần của quê hương Kinh Bắc – miền quê Quan
họ.Xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, khá dân chủ, bình đẳng.Con người
ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng.Hội đồng kỳ lão
có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức
dịch như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát
quan họ, vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo,
chức vị, không dè bỉu “tiền án, tiền sự”… Tất cả chỉ là “liền anh, liền chị”,
các quan viên họ cùng say đắm với “yêu nhau cởi áo cho nhau” và “bao giờ thấy
lá diêu bông/để cho váy lụa buông chùng… mà hay!”
Thơ
Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc đáo, một phong
cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng.Thường bất chấp
văn phạm.Ông là người kế tục Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại – một lối
thơ siêu thực hôm nay.Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải
thoát.Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Bắc Ninh đạt tới độ Hàn Lâm.Từ thực tại đã
thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh.Rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên không hiếm
khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức.Như lời ca quan họ, thơ Hoàng Cầm
là ngọn lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như
ai đó dù đi đâu, đến đâu vẫn gửi hồn về Kinh Bắc thân thương. Thơ Hoàng Cầm
đang đi từ chân trời xưa cũ đến chân trời nay tươi mới để ta thêm yêu những
chân trời đang có người bay với những người bay đang tới một chân trời đổi mới
đầy xán lạn, rất thơ.
Đình
Bảng ngày mùng 1 Tết Ất Dậu (2006)
Hà Nội ngày 6-5-2010
SƯƠNG CẦU LIM
Chấp
chới lá chè non
Cầu
Lim, Nội Duệ
The
Hà Đông đón kiệu
Bỏ
quê Xim
Ếch
Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống
Sáo
sậu Phù Ninh
rợp
nắng
Về
Thăng Long
Đá
nghển trông con
gục
đầu sườn núi Dạm
Lụa
vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè
ngang khói bếp
Bặt
mùi khoai nướng
Đầu
rau nằm sấp toạc môi
Trống
Chờ thúc chín tiếng
Chuông
Trõ nện ba hồi
Mõ
Phù Lưu khua bến đò Lo
Thầy
Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết
lòng chim sáo ri
Gái
Cầu Lim,Nội Duệ đã đi
Hoàng Cầm
Lời Bình Của Nguyễn Khôi:
Đọc
thơ Hoàng Cầm có khác nào đọc Marcel
Proust (văn hào Pháp 1871-1922) với “Đi tìm thời gian đã mất”… đó là kết tinh của
cuộc sống nội tâm với những trăn trở về quá khứ. Tất cả thời gian đã mất trong
khi quan sát dòng xoáy ngoài đời, nay thi sỹ đã tìm thấy lại, một hồi tưởng tha
thiết biến kết quả quan sát thành chất liệu của thi phẩm.Đó là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt hành trình thơ Hoàng Cầm.
Cũng
như “lá diêu bông” đến “sương cầu Lim”, nhà thơ Kinh Bắc lấy những địa danh cụ
thể để nói những cái không cụ thể (một thế giới riêng hư ảo, ẩn hiện giữa một
không gian mênh mông của miền quê Quan họ), có khác nào một thoáng Đường thi
miêu tả cái cao bằng cái rộng (dục cùng thiên lý mục-cánh thướng nhất tầng
lâu).Bắt Hòn Đá và Ông Đầu Rau thành người, đó là cái “mã” chuyển hóa các giác
quan, một nghệ thuật bậc thầy mà trong thơ Hoàng Cầm nào đâu có ít. Thơ Hoàng Cầm
giàu âm điệu, như ông nói”nhạc là cái xe chở hồn của bài thơ”. Ở đây những câu
thơ dìu dặt luyến láy là do sắp đặt, nhưng giai điệu bài thơ thì lại xuất thần
vượt khỏi sự chủ ý của tác giả, như tự mình nó (văn bản thơ ) dựng được cả một
không gian tinh thần (không khí và văn hóa Quan họ), một vương quốc thơ của
riêng Hoàng Cầm.
Về
ngôn ngữ thơ: Hoàng Cầm rất tài tình trong việc sử dụng các động từ (như “đá
nghển”…lụa vàng xé lộc…rồi nện, khua… thật kỳ diệu với thơ).
Cùng
với Lá Diêu Bông, cây Tam Cúc thì Sương Cầu Lim là một trong những bài cao thủ,
độc đáo nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi thành công trong thi pháp của nhà thơ
hôm nay.
Viết
tại quê xóm Đình, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
Mồng 1 Tết Ất Dậu (2005)
Bài
15: ĐÔI ĐIỀU VỀ VÁY ĐÌNH BẢNG & LÁ
DIÊU BÔNG
NK
tôi- nhà ở Xóm Đình,làng Đình Bảng (tên Nôm là làng Báng-kẻ Báng),Từ Sơn , Bắc
Ninh…nơi có ngôi Đình nổi tiếng Xứ Bắc:
Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì đình Báng,vẻ vang đình
Diềm.
Đình
Bảng cùng với Chợ Giầu (Phù Lưu) là 2 làng Buôn bán lừng lẫy,ở Quê nhưng đã đô
thị hóa. Người Đình Bảng sớm tiếp thu văn minh phương Tây : trai complê-Càvạt,nữ
áo dài váy lụa; đặc biệt là đã cải tiến sáng tạo ra “nếp váy Đình Bảng”-đó là một
kiểu váy đẹp của con gái Đình Bảng-Chợ Giầu thời trước năm 1945,thường mặc
trong lúc giao tiếp hoặc đi hội. So với “váy nùm rơm” (Phúc Yên), hay “váy bó
que” (Hà Nam ) thì Váy Đình Bảng (lụa)cùng với áo dài tân thời đạt tiêu chí
sang trọng hợp với các “bà chủ”,”cô chủ” trong giao tiếp làm ăn trên thương trường,
tiện cho sự đi lại lên tầu xuống xe…chính vì yêu cầu của cuộc sống mà chiếc váy
Đình Bảng được cách tân hợp thời trang ra đời là thế.
Đó
là loại váy lụa,váy lĩnh…màu đen,nhiều nếp gấp,buông chùng tới mắt cá chân,phía
trước lượn hình lưỡi Chai (con Chai,con hến). Cô Tuyết, cô Nhung, mợ Loan , mợ
Thảo lúc bấy giờ đầu tóc vấn khăn nhung,ra khỏi nhà là có khăn vuông to bằng lụa
Hà Đông hay khăn nhung khăn len (bông bát tơ-Pháp) tùy mùa bịt to hó,mỏ quạ che
đầu.Yếm trúc bâu trắng che bầu ngực đầy sung mãn,áo phin hay cát bá trắng may
bó sát eo lưng, cài khuy bấm,thắt lưng lụa màu hoa đào hay phấn hồng,áo dài
khoác ngoài màu sắc tùy theo lứa tuổi. Bàn chân gót đỏ đi hài nhung hay dép
Săngđan da; váy buông chùng chỉ vừa hở mũi hài. Đồ trang sức là đôi hoa tai mặt
đá kim cương, kiềng Vàng,vòng tay đá cẩm thạch,nhẫn mặt ngọc.Đóng bộ đầy đủ
xong,các chị,các mợ xuất hành:
Anh về vui với cày bừa
để em tay nải gió đưa phương trời…
Đó
là một Nàng Giáng Kiều thướt tha yểu điệu,thông minh xinh đẹp-cô gái Bắc Ninh
sinh ra từ vùng quê Văn hiến giầu có,trình độ dân trí cao,đảm đang năng động
(đã đi ra khỏi lũy tre xanh vào thành phố) tiếp cận thị trường nhanh ,sớm trở
thành các nhà triệu phú,tỉ phú lừng danh trên thương trường thời bấy giờ .
Thi
sĩ Hoàng Cầm (quê làng tranh Đông Hồ) thuở niên thiếu từng sang chơi Hội Đình Bảng,và
đã phải lòng “một chị” mặc váy Đình Bảng,để rồi theo gió quê vi vút gọi thơ thẩn
đi tìm Lá Diêu Bông…NK tôi nhà ngay bên đình, đọc thơ của Bác HoàngCầm, hứng khởi
đôi vần :
NGƯỜI ĐI TÌM LÁ DIÊU BÔNG
Người
đi tìm Lá Diêu Bông
Mình
về nhặt những Lá Hồng xếp chơi
Còn
duyên buôn Quế bán Hồi
hết
duyên Lá Bưởi nhóm phơi ngoài đồng
bao
giờ thấy Lá Diêu Bông
để
cho váy lụa buông chùng…mà hay
Mình
như một kẻ lạc loài
Xóm
Đình chả “dạm”…dạm ngoài Kiến An.
Đình
Bảng, rằm tháng ba
Bài 16: LÁ DIÊU BÔNG – CHIÊU ĐỘC CỦA HOÀNG CẦM
LỜI
DẪN: Theo nhà thơ Hoàng Hưng (VN Lagi & Talawas ngày 19-09-2010) thì: Nhà
thơ Hòang Cầm viết tập thơ “về Kinh Bắc” từ 1959 – 8 / 1982, chủ yếu lưu truyền
bằng chép tay (ngoài luồng) – đây là một sự kiện “hậu Nhân văn – Giai Phẩm”,
trong đó bộ 3 “cây-lá- quả” (cây tam cúc – lá Diêu bông – quả vườn ổi) là nổi bật
nhất vì chúng được (giới Văn nghệ) xì xầm diễn giải như một lời oán trách của
“Em” (văn nghệ sĩ) với “chị” … đại khái là “Em” yêu “chị” , nhưng “chị” đã lừa
“Em” , cho “Em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “Em” bơ vơ để đi lấy chồng.
Theo
Hoàng Cầm kể, thì 1974 Công An Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu
truyền những bài thơ “có nội dung xấu ấy” … Hoàng Cầm phải ngưng… hậu quả vụ án
“về Kinh Bắc” là :
–
Hoàng Cầm bị đi tù 16 tháng
–
Hoàng Hưng vì xin được, có trong tay mấy bài thơ trên nên bị đi tù 39 tháng.
–
Nam Dao (Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng) – Việt kiều yêu nướcCanada bị “cấm cửa”
không được về Việt Nam trong 20 năm.
Sau”
Đổi mới” (1986) mãi tới 1994 “Về Kinh Bắc” mới được NXB VH in bằng loại giấy xấu.
BÌNH:
LÁ DIÊU BÔNG
Váy
Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị
thơ thẩn đi tìm
Đồng
chiều
cuống
rạ
Chị
bảo
Đứa
nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ
nay ta gọi là chồng
Hai
ngày Em tìm thấy lá
Chị
chau mày
đâu
phải Lá Diêu Bông
Mùa
đông sau Em tìm thấy lá
Chị
lắc đầu
trông
nắng vãn bên sông
Ngày
cưới Chị
Em
tim thấy lá
Chị
cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị
ba con
Em
tìm thấy lá
Xòe
tay phủ mặt Chi không nhìn
Từ
thuở ấy
Em
cầm chiếc lá
Đi
đầu non cuối bể
Gió
quê vi vút gọi
Diêu
Bông hời…
… Ới
Diêu Bông… !
BÌNH:
Bài này có 2 cách hiểu:
1)
Theo kiểu ngây thơ, coi đây là một bài thơ tình thứ thiệt, là một khúc hồi tưởng
(viết trong một cơn mơ “vô thức” mà “Thần Linh đọc Diêu Bông”, tôi chép Diêu
Bông, thế thôi.)
Đó
là mối tình đơn phương của cậu bé 12 tuổi (HC) với Chị Vinh (20 tuổi) ở ga Việt
Yên, Bắc Giang thời trước 1945 … một thứ tinh yêu đơn phương của một chú bé
ngây thơ huyễn tưởng với một bà Chị sành sỏi” tung ra cái Lá Diêu Bông (ảo huyền)
“dứ” trêu chú bé ngây ngốc?
Bài
thơ mở đầu bằng “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” là Thi Sỹ đã lấy cái địa
danh (quê Vua Lý) với cái Váy lưới Chai của gái Đình Bảng nổi tiếng thời bấy giờ
để tạo sức hút (gây ấn tượng)… tiếp theo là Tác giả tung ra cái Lá Diêu Bông
(lá Trời) , huyền ảo, sắc sắc không không như một phép thần thông của “Chị” bủa
vây giăng lưới “bẫy” Chú “Em” ngây thơ chạy theo mối tình hư ảo vô vọng…
Thủ
pháp “Váy Đình Bảng/Lá Diêu Bông” quả thực là LINH NGHIỆM đã mê hoặc bao lớp độc
giả say thơ Hoàng Cầm… Để rồi có Nhạc sỹ phổ thơ Lá Diêu Bông, Cô Nàng Sài Gòn
mở “Quán Diêu Bông” như một tình thơ đẹp thu hút rung động bao con tim, trí tưởng
tượng của một thời “gió quê vi vút gọi …”
2)
Hiểu theo cách: Thơ “ẩn dụ”, cái thâm nho của Thi sỹ (con nhà chữ nghĩa người
làng Hồ – xứ Kinh Bắc) mượn truyện tình (bịa) để nói truyên Đời của một thời
sau vụ NV-GP… Để ai đó tự suy diễn mà chia sẻ nỗi đau với tác giả.
VỀ
NGHỆ THUẬT bài thơ : Đây là nghệ thuật bậc thầy. Thi Sỹ Hoàng Cầm tạo ra hình
tượng thơ “Lá Diêu Bông” huyền ảo gây mê hoặc lòng người: – yêu(tình) thì rất
tình mà đau (hờn đời) thì thấm tới cõi Thần Linh ma quái… Phải có một hồn thơ
siêu viêt, một bút pháp kỳ tài (như viết trong mơ), nỗi đau tình, đau đời, ẩn
hiện trong nhau, chữ ít ý nhiều – kể cả đầy ẩn ý … Về ngôn từ: Thi Sỹ dùng cách
nói của người Kinh Bắc rất Quan họ như: Trông nắng vãn bên sông (lưu ý tử VÃN),
xe chỉ ấm trôn kim, xòe tay phủ mặt… rất dân gian mà cũng rất Hàn lâm; Tất cả ý
tứ chữ nghĩa quyện vào nhau để Lá Diêu Bông còn mãi với Đời.
Tóm
lại: Bài thơ Lá Diêu Bông nằm trong tập thơ liên hoàn Về Kinh Bắc là “một lâu
đài tráng lệ với không gian văn hóa cổ kính hòa trộn với tâm linh hiện đại , những
ẩn ức về thân phận con người cùng khát vọng sống của nó” – qua phía âm bản của
thơ ta thấy được tiếng kêu bi thương thầm thĩ của người nghệ sỹ tài hoa đầy
tính nhân văn, sự ám ảnh về thân phận con người nghệ sỹ trí thức, nỗi thất vọng
to lớn giữa lý hưởng và hiện thực cuộc sống của một thế hệ văn nghệ sỹ. Theo
thiển ý của NK thì có lẽ sau Tây Tiến (Quang Dũng) thì Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm
là một trong những đỉnh cao trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Sáng tác Lá Diêu
Bông là Hoàng Cầm muốn gửi một thông điệp đến bạn đọc để giãi bày cái đau tình,
đau đời mà Thi Sỹ ẩn nhẫn câm nín bao ngày không nói ra được.
“Lá
Diêu Bông” là một bài thơ “thần khẩu hại xác phàm” thời nay, nó rất định mệnh –
rất ĐỘC – ai nặng tình vướng phải nó (ở một thời chưa Đổi mới mở cửa) thì đều
chuốc lấy TAI HỌA!
Này
đã qua 50 năm , mấy nhân vật chính đã đi vào thiên cổ… thế mà nghe lại chuyện
cũ (đọc) vẫn thấy sởn tóc gáy:
Diêu
Bông hời …
Ới
Diêu Bông …
Góc Thành Nam Hà Nội 20-09-2010
Nguyễn Khôi – cẩn bút …
Bài 17: THƠ VỀ PHỐ KÉP
“KÉP”
là địa linh trong lịch sử Việt Nam,là 1 trong 4 thôn thuộc xã Liệt Hạ (Đông,
Hà, Kép, Phù Mỹ) thuộc Tổng Thịnh Liệt, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, Kinh Bắc
xưa, nay thuộc T.P Bắc Giang.
Địa
danh KÉP xuất phát từ 2 địa danh xưa là “Cần Trạm” và “Cần Dinh” mà ngày
14-10-1407, nơi quân Minh xâm lược, do Tổng binh Trương Phụ và Đô đốc Liễu
Thăng chỉ huy đã tập kết quân sĩ để chuẩn bị công phá Thành Xương Giang của Đại
Việt…Thời 1955-1975 ở đây có “sân bay Kép” đã nhiều lần “Én bạc” của Không quân
Việt Nam xuất kích bắn hạ nhiều máy bay “Thần Sấm”,”Con ma” của không lực Hoa Kỳ
leo thang xâm lược nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa !
Năm
1916 cụ Bàng Nguyên Dũng (thân sinh ra Thi Sĩ Bàng Bá Lân) lên đây khai khẩn đất
hoang,lập Ấp,khai sinh ra “Thị trấn Kép”…mà biểu tượng là phố trồng toàn Cây
Bàng (còn nguyên vẹn cho đến tận hôm nay…)
NK
xin giới thiệu chùm “Thơ về Phố Kép” xưa &nay để các bạn đọc cùng thưởng thức:
*1- THƠ ĐỀ GỬI CÁC CON
Cha,cõi
phong trần đã trắng râu
Con,
tuần khôn lớn mới xanh đầu
Tên
nêu bia bảng to là thực
Nghiệp
nối cơ cừu phải nhỏ đâu
Cửa
hiếu đựng trăm đường sự nghiệp
Nhà
Nho riêng một mối sang giầu
Non
sông dẫu cách,lòng không cách
Giấy
ngắn tình dài dặn mấy câu.
Bàng
Nguyên Dũng (1874-1950)
*2- TRĂNG QUÊ
Trời
cao, mây bạc, trăng tròn
Đê
than hiu quạnh,tre buồn nỉ non
Diều
ai gọi gió véo von
Cành
xoan đùa ánh trăng non dịu dàng
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô lại múc trăng vàng đổ đi ? (1)
Bàng Bá Lân
(1912-1988)
(1)
đây là 2 câu thần cú đã được dân gian “ca dao hóa” trở nên bất hủ:
Hỡi
cô tát nước bên đàng
Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?
*3-
LIÊN NGÂM
Tô
Hoài,Nguyễn Bính,Vũ Hoàng Chương
Còi
thét vào ga Phủ Lạng Thương
Sở
tại Bàng quan chầu xuống xóm
Thi
nhân Bá ngọ chuyến lên đường
Dòng
trong dòng đục thêm ngao ngán
Chùm
chín chùm xanh uổng vấn vương
Nằm
muỗi qua đêm chờ sàng dậy
Còi
xe phong hỏa xé màn sương.
Nguyễn Bính-Vũ Hoàng Chương (1942)
*4- LÊN KẾP HỌP
(THƠ
LIÊN NGÂM)
Một
đoàn Văn nghệ lang thang
Kéo
nhau lên Kép thăm Bàng Bá Lân
Đầu
trò có Lão thi nhân
Đầu
đội nón lính, tay cầm ba toong
Người
ngông ăn mặc cũng ngông
Thẩn
thơ toàn lối “ngược dòng” nói ngang
Theo
chân thất thểu hai nàng
Nàng
Thơ, nàng Quý cùng làng thơ văn
Một
nàng yểu điệu thanh tân
Túi
thơ khép mở ái ân đợi chờ…
Một
nàng cặp mắt lơ mơ
Áp
xe vận tải thẫn thờ thương ai
Ai
đây là một chàng trai
Áo
xanh cà vạt ngang vai tải đồ
Hai
nàng có chiếc Te-rô
Cưỡi
không được cưỡi,ô hô dắt dài…
Anh
Đồ Thư dáng bảnh trai
Aó
Tây nón lá địu dài trên lưng
Tâm
tình kín mít như bưng
Ngoài
xem cử chỉ nói năng dịu dàng
Này
đây khổ chủ họ Bàng
Giầy
“giôn”,găng trắng,vai mang ống hình
Gặp
nhau bao xiết cảm tình
Mà
xem Văn hóa tiếp mình cũng cao.
Tú Mỡ-Anh
Thơ -Đào Dương (1947)
*5- TỪ GA KÉP
Đôi
lứa ban đầu mất lạc viên
Cho
ta ngán kiếp nhớ thiên duyên
Chiều
nay mộng thắm vừa tơ nối
Vườn
cũ ngòi vàng lại gió lên
mây
nước dâng cao hồn chắp cánh
trần
ai rũ sạch nẻo về tiên
Bao
la trăng động miền ân ái
Giọng
hát chim trời líu ríu men
Vũ Hoàng
Chương
(Đây
là thời ân ái của Vũ & Đinh Thị Thục Oanh (chị gái Đinh Hùng) tá túc ở nhà
Đào tiến Đạt-Nhà thơ,trưởng Ga Kép (1942)
*6- SÂN GA CŨ
Tàu
không dừng bánh sân ga cũ
Vội
vàng qua gửi lại hồi còi
Lan
trong gió nhòa dần khói trắng
Buồn
bâng khuâng như tiếng thở dài
Cây
Bàng già dấu xưa còn lại
Hững
hờ buông đôi chiếc lá rơi
Nền
cũ chơ vơ chiều nắng quái
Sân
ga buồn chờ khách vãng lai
Họa Sĩ Tạ
Thúc Bình (1917-1998) quê Kép
*7- THĂM PHỐ KÉP
Hẹn
tự thuở nào lên xứ Bắc
Phố
cây Bàng đồi núi nhấp nhô
Đâu
Cần Trạm,Cần Dinh…Ơi phố Kép
Tiếng
còi tàu thức dậy những trang thơ
Ai
lên lập Ấp ngày xưa ấy
Đồng
đất hoang vu hóa phố phường
-Mấy
chàng Thi Sĩ phi ngưạ bạch
Lững
thững đi vào trong khói sương…
Quê
hương lạc bước về đâu nhỉ
Nhà
cũ ông cha dấu gạch mòn
Sông
Thương đôi ngả tình muôn ngả
Thơ
nói gì đây với cội Bàng ?
Nguyễn Khôi
3-11-2006
*8- GỬI MỘT NGƯỜI GỐC KÉP
Trượt
qua thế kỷ vẫn mang mang
Thương
nhớ còn đây dãy phố Bàng
Lá
non bướm đậu cành xanh lại
Quả
chín sao bay gốc cũ càng
Em
đi đăm đắm cười xuôi nắng
Tôi
ở dưng dưng vọng ngược làng
Ngần
ấy năm giời bao trận gió
Tình
mà không đáy cũng vang vang…
Anh Vũ
(Quê
Từ Sơn,đang cư trú ở Kép) 2010
Đình Bảng, rằm tháng ba
Bài 18: TÂY TIẾN – TUYỆT
CHIÊU CỦA QUANG DŨNG
I- Tiểu sử Quang Dũng:
Quang
Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu (tức Diệm)sinh năm 1921 tại làng Phượng trì, tổng
Đại Phùng, huyện Đan Phượng(Hà Tây). Quang Dũng là lấy tên con trai làm bút
danh(năm 1952 viết tập ký sự “Đoàn võ trang tuyên truyền Việt-Lào”, ký tên là
Trần Quang Dũng. Cụ thân sinh là một chức dịch, mẹ là người phụ nữ đảm ven
Đô(làm ruộng và buôn bán nhỏ). Gia đình khá giả nên Quang Dũng gửi ra Hà Nội học
văn, học võ, học vẽ, học đàn…để sau này, trong lĩnh vực nào anh cũng có những
thành tựu đáng kể, trong đó kiệt xuất phải nói là thơ.
Từ sau ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945,Quang
Dũng được cử làm Phái viên Quân Sự Bắc Bộ, làm công việc cất dấu máy móc quân sự,
đi các địa phương tìm mua súng đạn, giành chiếc máy bay Nhật ở Ba Vì. Rồi với
tư cách Chính trị viên phó Đại đội Tổng vệ binh Cảnh vệ Khu 2…khoảng cuối năm
1947 anh gia nhập đoàn quân Tây tiến. Sau một thời gian chiến đấu ở Lào trở về
Hoà Bình thành lập trung đoàn 51. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm
1948, rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ,chưa bao lâu, ngồi ở
Phù Lưu Chanh (Kim Bảng-Hà Nam) thi sĩ bồi hồi viết “nhớ Tây tiến”, bài thơ xuất
thần viết liền một mạch trong một đêm để trở thành kiệt tác thơ Việt Nam thế kỷ
xx.
Trước Tây tiến, Quang Dũng đã có “đôi mắt người
Sơn Tây” rất nổi tiếng với “Vầng trán em mang trời quê hương/mắt em dìu dịu buồn
tây phương/Tôi nhớ xứ Đoài mây trăng lắm…”.Về Nhạc thì có “Ba Vì mờ cao” với “từ
xa thương nhớ Ba Vì ơi !/thời gian như muốn phai bóng người/giang hồ dừng bước/nhớ
nhung Ba Vì ơi ! Sau Tây tiến còn là “Những lang đi qua”,”vườn ổi”,”em mãi là
tuổi 20″,”mây đầu ô”,,,cũng như các bài buổi đầu làm thơ”Chiêu Quân”, “cố Quận”
đều là những bài thơ hay riêng một chất thơ Quang Dũng.
Nếu ví Hoàng Cầm (thơ) là tinh hoa của hồn quê
Quan họ thì Quang Dũng là “bạch vân thiên tải không du du” là hồn thơ của mây
trắng xứ Đoài với “Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc? Sáo diều khuya khoắt thổi
đêm trăng” cùng “mây ở đầu ô mây lang thang…”
Lang thang lãng tử thích ngao du sơn thuỷ đi
đó đi đây là kiếp đoạn trường của đời nghệ sĩ…cái tinh thần thượng võ, cái khí,
cái thần của người thơ ấy được đúc nên từ lòng yêu quê hương xứ sở-yêu đời, đời
đẹp như thơ, như đời người chiến sĩ chỉ biết hi sinh, chỉ biết phụng sự lý tưởng
và đất nước mà nhà thơ đã đi trọn cuộc đời.
Nhà thơ Quang Dũng từ trần ở Hà Nội ngày
13-10-1988. Ông đã được Giải thưởng Nhà Nước về Văn học. Bài thơ Tây tiến đã được
chọn một đoạn khắc vào Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Tây tiến ở Châu Trang, xã Thượng
Cốc, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình)ngày 20-12-1990,và tượng đồng bán thân của Vệ Quốc
Quân Quang Dũng được đặt tại Trường Tiểu học quê nhà là một minh chứng về sự
tôn vinh của Nhà Nước-Nhân dân đối với Nhà thơ yêu quí của chúng ta.
II - Về địa danh Tây Tiến
Thời
điểm 1947 thuộc “Đội vũ trang tuyên truyền Tây Tiến (trung đoàn 52). BCH Đội gồm
Đoàn Hải làm chỉ huy trưởng, Phúc Thảo làm chỉ huy phó, Văn Sinh & Quang
dũng làm uỷ viên. Trong 2 năm 1947-1948 quân ta đã bám sát quần nhau với địch ở
vùng biên giới Việt-Lào, ngoài sự hy sinh, tổn thất trong chiến đấu, trên 200
chiến sĩ Tây tiến đã ngã xuống vì bệnh sốt rét ác tính, suy dinh dưỡng (…đoàn
binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá…) là vậy !
Mường
Lát là một bản dân tộc Thái vùng biên giới Việt-Lào, bên tả ngạn Sông Mã (Thanh
hoá) nhưng lại giáp với Mộc Châu(Sơn La) về phía bắc,giáp Hoà Bình về phía nam.
Núi rừng ở đây trùng điệp lên tới tận Sài Khao, nơi cư trú của bản Người dân tộc
Dao(Man,Mán-“hèn lên Man điệu…”) quanh năm sương phủ. Mùa mưa ở Mường Lát, cả đất
trời đẫm trong hơi nước như mây khói bốc lên ngùn ngụt, mịt mù trong đêm. Hành
quân từ rừng về bản, bộ đội phải đốt đuốc soi đường,Câu thơ “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi” là thi sĩ đặc tả “lửa” ở đây được cách điệu thành “hoa”(như kiểu”đầu
tường lửa lựu lập loè đâm bông”).
Câu”trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa” là câu thơ tài hoa,làm ta liên tưởng tới câu ca dao
xứ Mường :
Trăm
thứ hoa không bằng hoa con gái
trăm
thứ trái không bằng trái bông cơm
trăm
thứ thơm không bằng thơm con mái…
Mà
trái bông cơm là lúa gạo,con mái là con gái tuổi dậy thì…Các chàng trai “Vệ Trọc
“(đầu trụi không còn tóc) vừa ở rừng ra thấm đượm tình nghĩa Quân dân,được các
em (hoa rừng)chèo thuyền đi đón…thì làm sao quên được “hồn lau nẻo bến bờ” ?Thơ
Quang Dũng vừa trữ tình vừa bi tráng là vậy !
III -
Bài thơ buổi đầu trình làng:
Theo
tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng tư, tháng năm năm 1949-Văn nghệ Bộ Đội của Hội
Văn Nghệ Việt Nam-
Thư
ký Toà Soạn: Nguyễn Huy Tưởng
thì
bài thơ in ở trang 17,toàn văn như sau :
NHỚ TÂY TIẾN
Sông Mã xa rồi,Tây tiến ơi
Nhớ
về rừng núi,nhớ chơi vơi.
Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường
Lát hoa về trong đêm hơi;
Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo
hút cồn mây súng ngửi trời;
Ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà
ai Pha Lương mưa xa khơi.
Anh
bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục
lên súng mũ bỏ quên đời…
Chiều
chiều oai linh thác gầm thét
Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ
ôi ! Tây tiến cơm lên khói
Mai
châu mùa em thơm nếp xôi.
Tây
tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội giáng kiều thơm.
Rải
rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến
trường đi chẳng tiếc ngày xanh
Áo
bào thay chiếu anh về đất,
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành.
Tây
tiến người đi không hẹn ước
Đường
lên thăm thẳm một chia phôi
Ai
lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn
về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
QUANG DŨNG
(Đoàn
quân nhân văn nghệ L.K.3)
Chú
ý: Pha Lương=Pha luông.giáng kiều=dáng kiều.
Bài
thơ thiếu hẳn 1 đoạn 8 câu”doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…trôi dòng nước lũ
hoa đong đưa ?”
IV -
TÂY TIẾN
Sông
Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ
về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường
Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo
hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh
bạn dãi dầu không bước nữa
Gục
lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều
chiều oai linh thác gầm thét
Đêm
đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ
ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai
Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa
em xiêm áo tự bao giờ
Khèn
lên man điệu nàng e ấp
Nhạc
về Viên Chăn xây hồn thơ
Người
đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có
thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có
nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải
rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo
bào thay chiếu, anh về đất
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành
Tây
tiến người đi không hẹn ước
Đường
lên thăm thẳm một chia phôi
Ai
lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn
về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
(Phù Lưu Chanh, 1948)
Và nhà thơ Xuân Diệu phê bình TÂY TIẾN:
Trong
tập TIẾNG THƠ(15-5-1949) Xuân Diệu viết :”…Bài thơ hơi buồn, có đoạn buồn lắm:tứ
thơ không mới, có những câu văn hoa. Nhưng toàn bài rung rung như những dây đồng.
Đọc lên, trong miệng còn ngân âm nhạc. Cái cảnh miền Tây gian nan đặc biệt: bộ
đội Tây tiến là một trong những bộ đội nhiều hy sinh. Đánh giặc đã đành,mà người
với rừng núi còn tranh nhau ai thua ai được. Một bạn tôi lên thăm bộ đội quá
thượng du Thanh Hoá, trên biên giới Việt-Lào kể rằng: “Núi giăng màn trùng điệp;một
anh đội viên chỉ quãng chập chùng trước mặt nói: -Một mình tôi phụ trách 5 cây
số núi”. Lên đến nguồn Sông Mã, còn đâu là đồng bằng? Lúc mới đầu chưa quen thổ
ngơi, nhiều chiến sĩ chết.có lẽ cái rùng rợn buổi đầu ấp sâu vào tâm hồn tác giả.
Những chiến sĩ lưa thưa giữa nghìn trùng rừng núi chắc cảm thấy mình”cheo leo
chòi biên cương”, cảm thấy mình lạc đời. Những anh con trai Hà Nội lên đến đây
cạo trọc đầu, hay là sốt rét rụng cả tóc, người mặc áo chàm hay là mặt lây sắc
lá,hay là ốm tái màu da; giặc sợ các anh như sợ hùm :nhưng các anh dù thế nào
cũng nhớ Hà Nội cho được:
Tây
tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bài
thơ chỗ thì đẹp,chỗ thì ghê,man rợ rồi lại êm ái;đoạn sau cùng đầy những tiếng
từ ly.Những tên đất Sài Khao,Mường Lát,Pha Lương…ngân động.Đến cái tên Sầm Nứa
thì câu thơ buồn mà hay quá; hồn đây là tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào:
Tây
tiến người đi không hẹn ước
Đường
lên thăm thẳm một chia phôi
Ai
lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn
về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
VI -
BÌNH của Nguyễn Khôi:
a) Bài bình 1:
TÂy
TIẾN là một trong vài bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam 1945-2000.Đọc Tây Tiến,ta
cứ ngỡ như đang đọc một bài Cổ phong-Tương tiến tửu(của Lý Bạch)đương đại ?Cái
lối “tráng sĩ hề”-một đi không trở lại ngang tàng hào hoa của các chàng trai Hà
Nội(thời1946). Với thủ pháp nghệ thuật độc đáo theo kiểu 1 câu chia 2 vế âm
/dương đối nhau:
dốc
lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm
heo
hút cồn mây/súng ngửi trời…
đã
tạo sự cân bằng hằn vào trí nhớ của người đọc; còn “đêm mơ Hà Nội dáng Kiều
thơm” là câu thơ để đời “tử bất hưu” nghìn năm mới mới xuất hiện !
Cái
tài hoa của thi sĩ về mặt dùng “chữ” thì xưa nay ít ai có được,ví dụ như: trong
bài thơ có 3 chữ “Hoa”(hoa là ám chỉ về con gái-phái nữ):
–
Câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” đây là cái “cảm” của Nhà thơ về cái mùi
thương yêu ấy( trong bài thơ “Gửi Tuyên Quang” của NK viết sau 45 năm cũng có
cái “cảm” đồng điệu ây:
Đêm
Hà Nội đã nhạt mùi hoa sữa
tưởng
tóc ai phảng phất hương rừng…)
–
Câu “đêm trại bừng lên hội đuốc hoa”:Đuốc hoa đây là “hoa chúc” tưng bừng của
cái”kìa em xiêm áo” với “nàng e ấp”…
–
Câu “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”,Ai đã từng”đi Châu Mộc chiều sương ấy” đây
là vùng thượng nguồn Sông Mã chung giữa ta và Lào ( Sầm Nưa) thường là đi thuyền
mà Câu thơ Sống Chụ Son Sao đã tả “hoa Áy rờn trôi ngang Sông Mã” đôi bờ là hoa
rừng và các cô gái Thái(VN)-Lào ra sông tắm giặt…
Câu
kết “hồn về Sầm Nua chẳng về xuôi” là thể hiện”làm trai có chí xông trời thẳm”của
anh Bộ đội Cụ Hồ đi giải phóng dân tộc với tinh thần Quốc tế cao cả!
Quang
Dũng với Tây Tiến đã góp phần đưa thơ Việt Nam đương đại lên môt dỉnh cao nghệ
thuật lãng mạn cách mạng,hoành tráng với tâm chí “Nay ở trong thơ nên có thép”
thật là tuyệt vời Xưa nay hiếm là vậy !
b)
Bài bình 2 (đăng trong thông
tin Họ Bùi ở Việt Nam):
Cho
đến nay Tây tiến vẫn là một đài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng
của bài thơ Tây tiến…chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời
thơ,ý thơ,hình tượng thơ Giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ
và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ
thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Cái độc đáo của bài thơ
là không có cấu tứ, cái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm ở cuối
bài mà lại nằm ở 2 câu 13=14/34 :
Nhớ
ôi,Tây tiến cơm lên khói
Mai
châu mùa em thơm nếp xôi
Với
Tây tiến,Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự
vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội
Cụ Hồ (Vệ Quốc Đoàn-Vệ Út-Vệ túm-lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian
khổ nhưng rất đỗi hào hùng-Cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái
sắc đất Hà thành(và ven ĐÔ)hiên ngang,hào hoa phong nhã,cái thời”chiến trường
đi chẳng tiếc ngày xanh”(tả thực) với “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”(lãnh mạn).
Bút
pháp bậc thầy của Tây tiến là Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống(thơ
Đường)với “phép đối” trong từng câu,đoạn thơ,từng khổ thơ tạo ra 2 vế âm /
dương ,tương phản trong một “Trường đối nghịch”(thủ pháp đối lập)nhằm tô đậm ý
tưởng”không ca ngợi một chiều” mà là phản ánh đúng hiện thực của cuộc chiến…đó
là sự đói chọi,sự tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí(Việt Nam)chọi lại sắt
thép(thực dân Pháp). Thủ pháp đối ý ,đối âm trong Tây tiến với những câu thơ ăm
ắp hồn chiến sĩ,tạ nên khẩu khí bi tráng của toàn bài.ĐÓ là lối diễn đạt độc
đáo,cao thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơ”dốc lên
khúc khuỷu dốc thăm thẳm/heo hút cồn mây súng ngửi trời” để Tây tiến ở một vị
trí tượng đài vút lên trời xanh giữa núi rừng Tây bắc hùng vĩ của Tổ Quốc !
Trong
Tây tiến có một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó là”có nhớ
dáng người trên độc mộc/trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”…đó chẳng qua là một từ
HOA”ẩn dụ” cảm từ câu ca dao Xứ Mường”trăm thứ hoa không bằng hoa con gái”mà
con gái Thái-Mường là “bông hoa rừng”chèo thuyền độc mộc đưa Bộ đội qua sông
đang mùa nước lũ…Qua rồi để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò
trên “Châu Mộc chiều sương ấy” cứ đong đưa trong con mắt Người Sơn Tây đẹp đến
lạ lùng.
Cái chết (hi sinh) của người chiến sĩ nay
không phải là “da ngựa bọc thây” mà
là”chiến bào thay chiếu anh về đất” để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn
vang trời tiễn đưa người anh hùng…
Dùng
cái bi,cái mất mát để tôn vinh cái hào hùng…Với cảm hứng lãng mạn cách mạng được
đặc tả trên cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng,ma lực kỳ diệu của bài thơ
Tây tiến rất kinh điển mà cũng rất hiện đại-Đó là một trong những bài thơ hay
nhất của thơ Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ
XXI,hội nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay.
VII
- Trao đổi với bạn Ý Như:
Về
2 bài thơ TÂY TIẾN và ĐỒNG CHÍ:
Theo
thiển ý của NK thì 2 bài này đều viết về NGƯỜI LÍNH, đều do 2 Nhà thơ Lính,
cùng thời viết ra nhằm ca ngợi, tôn vinh Anh Bộ đội ( thời kháng chiến 9 năm chồng
thực dân Pháp xâm lược );Hai bài thơ này đều thuộc “diện” THƠ HAY (trong số 100
bài thơ chọn lọc thế kỷ 20-nxb Hội Nhà Văn 2007 ),được nhiều người yêu thích và
đều được đưa vào Sách Giáo khoa giảng dạy trong Nhà trường CHXHCN VN. Tuy
nhiên, cách bình phẩm,cách thưởng thức 2 bài thơ này,với riêng NK cảm nhận thì
:
-
Bài TÂY TIẾN là 1 trong 5 bài thơ vào loại HAY NHẤT trong số 100 bài chọn lọc kể
trên ;Với bút pháp Hàn Lâm,đó là con chim đại bàng vẫy lên đôi cánh mênh mông trên trời thơ xứ
Việt…Nó đẹp hoành tráng,kỳ bí-đọc phải suy ngẫm,rất nhiều ý tại ngôn ngoại…chắc
là kể cả mai sau, TÂY TIẾN còn tốn nhiều giấy mực người đời bình phẩm về nó ?
–
Bài ĐỒNG CHÍ,với bút pháp bình dân,đó là thứ ca dao được chắt lọc cô đọng: lời
lẽ ngắn gọn dễ hiểu,vừa tầm với những người Nông dân (bần cố)mặc áo Lính (thời
1947),đó là Con chim Sáo,chim Bồ câu gần gũi thân thương với quảng đại quần
chúng thời buổi đầu Cách mạng.
VIII
- Đôi lời kết:
Tây
Tiến ra đời đến nay đã qua 62 năm, bài thơ cũng như thân phận tác giả đã nếm đủ
nỗi thăng trầm thế sự, có một thời khá dài người ta đã cố ý” trẩm” (chìm) nó đi
tưởng nó đã đi vào quên lẵng ? – Nhưng không, thây giáo của NK từng bảo : chỉ sợ
Thơ anh không hay thôi, con hay đích thực thì sẽ bất hủ Tây Tiến với Quang Dũng
quả là vậy . Đây là TUYỆT CHIÊU của Quang Dung- một áng thơ đạt tiêu chí “kim cổ
kỳ thi” của dân tộc Việt Nam ta, có bị “đánh” cũng không chết! Nó có thể sánh với
HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hiệu, TƯƠNG TIẾN TỬU của Lý Bạch – những thiên thi ca kỳ
bí, thiên hạ sẽ còn tốn nhiêu bút mục”bàn” về nó. Ở Việt Nam ta đương đại có 3
Thi sỹ Họ Bùi:
–
Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt) với Lá Dieu Bông …
–
Quang Dũng (Bùi Đình Diệm) với Tây Tiến, Đôi Mắt người Sơn Tây …
–
Bùi Giáng với Mắt Buồn …
Đó
là 3 trái Núi thơ ( Thi Sơn ) sừng sững trên bầu trời thơ Việt đứng sau Nguyễn
Trái, Nguyễn Du …. Để cho ta tự hào về sự tài hoa trong sáng của tiếng Việt đầy
ắp hồn quên. Để thêm yêu tiếng Việt như “ngàn mày tràng giang” say muôn đời./.
Góc thành nam Hà Nội ngày 7-10-2010
Bài 19: TÌM HIỂU CÁCH LÀM THƠ CỦA NGƯỜI XƯA
Con
người ta sở dĩ bay lên được là nhờ hai cái cánh: văn học và khoa học.
Văn
là người có học vấn (trái với võ), văn hóa là dùng văn tự (chữ nghĩa) mà giáo
hóa con người. Bậc thánh nhân thì́ lập đức, danh tướng lập công, sỹ đại phu lập
ngôn.Thi thư là những bộ môn rường cột của văn học.Thuở sơ khai, các bậc huynh
trường dùng thơ ca để dạy con em, để chúng trở thành người chính trực ôn nhu, rộng
lượng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn.Thơ dùng
để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ.Thơ ở trong ḷng là chí, phát ra lời là
thơ (chí có nghĩa là dừng ở trong lòng nên nó được gắn với hai chữ tình và lý).
Ông
cha ta xưa làm thơ là học theo lối Đường-Tống: “Nhà thơ khi có thi hứng thì hồn
thơ cất cánh bay bổng lên những khoảng trời cao rộng. Luật lệ quy tắc (các thể
thơ) là để điều khiển cái hứng, giúp cho lối phô diễn được hoàn hảo, đẹp đẽ
hơn, du dương hơn chứ không phải để bóp chẹt cái hứng, phải biết vứt bỏ luật lệ
để giữ cái hứng, chứ không nên hi sinh cái hứng cho luật lệ.Thơ là để tả nỗi
lòng, tả bằng hình thức nào cũng được (cổ phong,luật thi..)Hễ tả mà cảm động được
lòng người là mục đích đã đạt.Thơ không phải chỉ là những chữ ghép cho thành vần,
cho có đối, cho đủ bằng trắc.Các bậc tài hoa theo luật mà không chịu nô lệ nó.
Họ biết phá luật để theo hứng, đã tạo nên những bài thơ bất hủ như “Hoàng hạc
lâu” của Thôi Hiệu, “Anh Vũ Châu” của Lư Bạch, “Đăng Cao” của Đỗ Phủ… đều thoát
khỏi sự câu thúc của niêm luật”. Sự tác động qua lại của thi hứng và luật lệ có
thể tăng cường hoặc trói buộc thi hứng – nhà thơ phải lao tâm khổ tứ để tạo được
những bài thơ hay là thế.
Công
việc làm thơ đầu tiên là luyện chữ: cách dùng “từ”(chữ) như thế nào, bố cục thơ
ra làm sao. Đỗ Phủ đă tâm sự “ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu”(chữ chẳng kinh người,
chết chẳng yên).Bì Nhật Hưu thì nói ”bách luyện thành tự, thiên luyện thành cú”
(trăm lần luyện mới thành chữ, nghìn lần rèn mới thành câu. Đến luyện câu thì
khởi – thừa –chuyển – hợp như thế nào, khử đối ngẫu ra làm sao, luật bằng trắc
ra sao, gieo vần thế nào? Luyện chữ đă khó, (ví dụ “chữ mắt“ (nhăn tự) đặt ở
đâu để nó tỏa sáng.Câu thơ hay phải có chữ hay đó là những hạt linh đan làm cho
đá biến thành vàng.Luyện chữ để cho chữ linh hoạt, sống động , cựa quậy, không
nằm bẹp trên trang giấy). Luyện câu lại khó hơn, rồi đến luyện ý (tạo ý mới, tứ
lạ) và bao trùm là luyện cách… thơ không có “thi cách” (phong cách riêng của từng
nhà) thì coi như vứt đi, loại bỏ. Bảng nhãn Lê Qúy Đôn từng dạy:”một bài thơ
hay phải có đủ t́nh, cảnh, sự – mà trong đó Tình là người, Cảnh là trời, Sự là
hợp cả trời đất mà quán thông…”
Người
xưa dùng đạo lý SÁNG/TỐI để tìm hiểu thơ ca, với quan niệm ”nhìn không thấy
không phải là không có, mà là chúng ta không thấy mà thôi”.Ví dụ: mặt trăng vào
thượng tuần đến ngày mùng 7, mùng 8 nó mới xuất hiện 1 nửa, c̣n một nửa kia
không thấy được.Cái nhìn không thấy ấy là đạo lý, điều mà ta nh́n thấy là sự thật.Ta
dùng hình tròn của mặt trăng để biểu thị THI VŨ (vũ trụ thơ) khi mặt trăng hiện
ra hình bán nguyệt, một nữa phát sáng để biểu thị mặt sáng trong thơ, nửa kia
không phát sáng đại biểu bằng hư tuyến(màu đen) để biểu thị mặt tối trong thơ,
hai mặt này đồng thời tồn tại.
Mặt
biểu hiện bề ngoài của thơ (mặt sáng) ta thấy được đó là phong cách của thơ, ư
và t́nh được diễn đạt bằng cú pháp, luật bằng trắc, cách gieo vần bằng các con
chữ, ấy là mặt ta có thể thấy được (hiển hiện trên mặt giấy viết); c̣n những cảm
thụ mà thơ mang đến cho ta (cái thứ ẩn dụ, ý tại ngôn ngoại, một thứ “tiếng thầm”
– đáo địa nhất vô thanh (là mặt tối) ta không thể trông thấy nhưng ta cảm được.Sự
linh diệu, thần diệu của thơ là vậy.
5 BƯỚC CỦA VIỆC LÀM THƠ
Bước 1: Mới bắt đầu học làm thơ
Đó
là đi từ các con chữ ghép vần theo thể thơ (5 chữ, lục bát, 7 chữ …) tiếp là
“theo thơ t́m lư” (đạo lý) trong thơ có lý:
Chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà.
- Đồ Chiểu
Bước 2: Đã biết làm thơ theo các thể loại một cách thành thạo
(ví dụ: lục bát là phải có “vần”) trong thơ có lư (tức là bài thơ đă có nội
dung để nói lên một tư tưởng nào đó) với ”từ lư bàn thơ” tức là nội dung và
h́nh thức phải “ăn khớp” nhau.
Bước 3: Làm thơ đă có thành tựu
Đã
làm được các bài thơ gọi là có giá trị truyền cảm nghĩa là đă đạt tới mức”thể dụng
như nhất”,”lý chính là ở nơi thơ” ”trong thơ có lư”.
Bước 4: Thành NHÀ THƠ (thi nhân)
Lúc
này trình độ đă đạt “dùng thể để hiển dụng”, dùng lư để luận thơ, dùng lư để
thành thơ.
Đó
là các Nhà thơ đạt tiêu chí ”Thi sỹ” – thơ của các vị này đă có “thương hiệu” ,
đă có những câu thơ, bài thơ Hay cho người đời biết đến, ngâm nga thưởng thức,
đă có thơ trong các Tuyển Tập Thơ Quốc Gia.
Bước 5: Thành “Thi Hào”
Đó
là nhà Thi sĩ đại danh (grand Poète)
Đó
là thơ đã đạt trình độ “thể dụng đều mất” “biến hóa không dấu vết”, nghĩa là
“thơ thành lư lập”.Đó là các vị như Lư Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha,
Nguyễn Trăi, Nguyễn Du…
Tuy
vậy các bậc tài hoa ấy lại rất khiêm tốn:
*
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập
thân tối hạ thị văn chương”
-
Viên Mai
*
Thi phú suốt đời, vô ích thật
Sách
đàn đầy giá, có ngu không!
-
Nguyễn Du
Ngày
nay chúng ta làm thơ theo lối “thơ mới” là đă tiếp thu, vận dùng nhuần nhuyễn
cái “cách” ẩn dụ của thơ Đường, tính tượng trưng của thơ Pháp để có những Lưu
Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Hữu Loan,
Quang Dũng, Bùi Giáng… với những vần thơ đọc lên xao xuyến ḷng người, rất hiện
đại và đầy bản sắc Việt – đó là những chiếc “áo lụa Hà Đông” của người Việt Nam
ta : ĐẸP, nền nă, tươi mát để cho các Thi khách ta đi vào thi đàn thế giới với
một tư thế đàng hoàng, cao sang và đầy ấn tượng.
Góc Thành Nam Hà Nội, ngày 20 tháng
11 năm 2009
Bài 20: BÙI GIÁNG VỚI MẮT BUỒN
(Tặng: Bùi Trần Tự)
Thi
sĩ Bùi Giáng (1 trong 3 thi hào đương đại Việt Nam : Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt),
Quang Dũng (Bùi Đình Diệm).Ông sinh năm 1926 tại Quảng Nam (nguyên quán: Vĩnh
Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam), từ trần ngày 7-10-1998 tại Tp HCM (Sài Gòn) thọ
72 tuổi.
Bùi
Giáng nổi tiếng về thơ “lục bát cách tân”,Ông đã in 7 tập thơ.Ngoài thơ, Bùi
Giáng còn viết sách giáo khoa, bình luận Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, Phan
Văn Trị…Dịch nhiều tác phẩm Văn , Triết từ tiếng Pháp, tiếng Đức ra Việt ngữ.
Có
ý kiến cho rằng :” Văn học Việt Nam hiện đại có hai “đột phá khẩu” trong ngôn
ngữ văn chương là Văn Nguyễn Tuân và Thơ Bùi Giáng ” ? Trước cả núi tác phẩm độc
đáo “khó đọc” với cái bút pháp “xí lắt léo” có một lối chơi ‘cà ngẳng”, “cà rỡn”
trong thơ cũng như cuộc đời đầy kỳ bí cuồng si của Thi sĩ để hậu thế còn tốn
nhiều giấy mực luận bàn về Thơ & Đời Bùi Giáng.
Cũng
như các vị tiền bối Nguyễn Du, Tú Xương…luôn tỏ ra vô cùng thương cảm cái biệt
nghiệp “hệ lụy nhân sinh” của “Tấn trò đời” (Balzac) mà xưa nay là cái thói
riêng của “giống hữu tình”. Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, lớn lên bao nõi ưu
phiền. “Con mắt thơ” nhìn đời thấy mọi giá trị đảo lộn. Nếu coi thơ là thế giới
ảo, thì ông là Thi sĩ đi giữa hai bờ thực / ảo cuộc đời ở trong vùng Nam Bộ-
nam Trung Bộ suốt một thời đảo điên (1945-1975).Năm 1965 ông viết như một lời tự
thuật:
Sơ
sinh phát tiết muộn lời
Tâm
hồn như lộc, trang đời như điên
Muộn
lời chậm tiếng đầu tiên
Liền
tâu Thần nữ mối phiền lão phu.
(Đề từ tập Rong Rêu)
Thây
kệ đời ô trọc, ông “điên” giữa phố thị Sài Gòn. ông là Đười Ươi trong rừng rú
còn hơn “lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ”. Đó là cái điên của một con người đã hồn
nhiên tin rằng : cuộc đời là một cuộc chơi, ngao du cho qua ngày tháng.Thơ Bùi
Giáng cho ta hình ảnh một gã Trung Niên Thi Sĩ khờ khạo đến sâu sắc, ngủng ngẳng
một cách nghiêm túc, điên một niềm tin trí tuệ rất triết học thành ra VÔ NGÔN,
quê mùa . Thơ Bùi Giáng là tiếng lòng không bình yên, ông đã phá chấp một cách
Vô thức, đáng yêu. Con người mang tiếng điên ( một dạng cuồng sĩ) cứ nhón chân
để rình bắt chính mình (nói như T.V Thiên An).
Thơ
Bùi Giáng là một týp thơ “bụi” , chịu chơi, phóng khoáng của “Bác hai Nam Bộ”
(kiểu bác Ba Phi), không ít những câu thơ quý hiếm, lạ lùng… mới bập vào tưởng
là Dân gian, đọc ngẫm nghĩ thấy rất Hàn lâm Bác học- đó là một tài thơ đặc biệt
trên Thi đàn Việt Nam hậu thế kỷ 20.
Yêu
nhau, ngàn vạn não nường
Biển
dâu lớp lớp mộng trường so le.
Hiểu
như Tản Đà (đời là một giấc mộng) thì ở Bùi Giáng là một cách diễn tả hình tượng
thơ thật đọc đáo :vừa truyền thống vừa hiện đại là vậy.
MẮT BUỒN
Bóng
mây trời cũ hao mòn
Chiêm
bao náo động riêng còn hai tay
Tấm
thân với mảnh hình hài
Tấm
thân thể với canh dài bão giông
Cá
khe nước cõng lên đồng
Ruộng
hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ
từ tháng chạp quay nghiêng
Ấm
trang sử lịch thu triền miên trôi.
*
Bỏ
trăng gió lại cho đời
Bỏ
ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ
người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ
hình hài của tiên nga trên đời
Bây
giờ riêng đối diện tôi
Còn
hai con mắt khóc người một con.
Bùi Giáng
BÌNH: Đọc Bùi Giáng là ta du hành lang thang vào cõi thơ, miền tâm thức của
ông (cõi miên trường) qua mọi ngõ ngách của mộng, của tình ,của lẽ tử sinh, của
nỗi xao xuyến bàng hoàng của một Trung Niên Thi Sĩ “ngày xưa ông ấy là Giáo sư,
ngày xưa ông ấy làm thơ, ngày xưa ông ấy giầu có lắm, ngày xưa ông ấy là Tô Vũ
chăn dê…Ông ấy uống rượu dưới trăng khuya, đọc thơ nơi quán vắng. Đó là một
chàng Thi sĩ ôm trái tim cô đơn, lãng tử, tình yêu đơn phương (người chẳng yêu
ta, ta cứ yêu),làm bạn với nhiều trăng gió, phấn hương…Cái hình dáng xưa ấy tuy
đã bị “bóng mây trời cũ hao mòn” nhưng trong tâm hồn chàng thì không bao giờ chịu
cũ ? và đến khi chỉ còn ‘;Bây giờ riêng đối diện tôi” thì bồng nhiên Người ấy cứ
hiện về. Thương người để quá thương thân .
“Gái
một con trông mòn con mắt” như trước mặt mà đã tuột khỏi tầm tay…Tất cả chỉ còn
trông theo và tiếc nuối…Người ta đã an bài ngời ngời hạnh phúc! - còn ta? “còn
hai con mắt khóc người một con” thật là não nuột , thật là chung tình, thật là
thơ mộng. thật là khờ khạo…thật là đáng yêu vì tình chỉ đẹp khi tình dang dở
kia mà?!
Và…
chỉ có Trịnh Công Sơn (Nhạc sĩ số 1 Việt Nam) là đủ tài hoa để chia sẻ nỗi đau
cùng Thi sĩ “còn hai con mắt khóc người một con / còn hai con mắt một con khóc
người/con mắt còn lại nhìn đời là không/ nhìn em hư vô,nhìn em bóng nắng… nhìn
em ra đi, lòng em xa vắng…”
Chao
ôi, thơ với nhạc- đôi bạn lòng tri âm tri kỷ để MẮT BUỒN của Bùi Giáng… đưa ta
về cội nguồn của nỗi đau đời đầy ngẫu nhiên và phi lý , nhưng vẫn còn “mai sau
hẹn với ban đầu/ chờ nhau ngõ khác ngõ màu nguyên xuân”.
Góc Thành Nam Hà Nội 21-1-2005 – thân tặng…
Bài 21: VỀ CÂU THƠ “LÁ TRÚC CHE NGANG MẶT CHỮ
ĐIỀN”?
Kể
từ khi Tử viết bài thơ “Đây thôn Vỹ DẠ ” gứi Cúc đến nay đã được 71 năm…mà cái
“án” văn chương này còn biết bao điều kỳ bí để người đời tốn biết bao bút mực
(hàn mặc) bàn tán về Nó ?Đấy là cái duyên thơ, cái “son phấn có thần,thơ vô mệnh”
cho dù người viết tặng và người được tặng đã đi vào thiên cổ nhưng Thơ thì vẫn
cứ làm day dứt lòng người yêu Nó ?
Nguyên
tác bài thơ là “Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ”- Thi sĩ viết khi đang nằm trên giường bệnh(1939)
là lúc Hàn Mạc Tử đang đau khổ lánh mình với nguồn thơ tuôn 2 dòng lệ…rồi chết
sau đấy đúng 1 năm tròn ! Đây là tình yêu đơn phương của Tử với Hoàng Thị Kim
Cúc( bút danh “Hoàng Hoa thôn nữ”)-HMT sinh 22/9/1912 Nhâm tý.HTKC sinh
5/12/1913 Quí sửu- trai hơn 1 đẹp đôi, nhưng Nhâm/quí thì thôi rồi…Số là mùa hè
năm 1939 Cúc nể tình Người em họ ( Hoàng Ngâm- bạn thân của Tử) khuyên ” Chị
nên viết thư thăm Tử(mặc dù không yêu) hãy an ủi 1 tâm hồn đau khổ” thay vào viết
thư, Cúc đã gửi 1 bức ảnh chụp phong cảnh nhỏ vừa bằng cái Carte Visite. Trong ảnh
có mây có nước,có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò,có mấy khóm tre ( không có
cau),có cả ảnh ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước…Cúc viết mấy lời
thăm sức khỏe sau bức ảnh mà không ký tên,rồi nhờ Ngâm trao cho Tử.Sau đó 1 tháng
Cúc nhận được 1 bì thư trong đó có bài thơ ” Ở đây thôn Vỹ Giạ” cũng do Ngâm gửi
về cho chị.Đây là một sự “không ngờ” về sức tưởng tượng phi thường của Thi nhân
quá khác thường: đã biến bức ảnh thành hình ảnh Bến sông Thôn Vỹ Giạ lúc hừng
đông hay đêm trăng, trong đó có cả Cô gái “lá trúc che ngang …” làm người ta
liên tưởng là cô gái đó mặc áo trắng vì câu “áo em trắng quá nhìn không ra” rất
ảo huyền viễn mộng…Bài thơ Tử ký 11/1939.
Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ
Sao
anh không về chơi thôn vỹ ?
Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn
ai mướt quá xanh như ngọc
Lá
trúc che ngang mặt chữ điền
Gió
theo lối gió mây đường mây
Dòng
nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền
ai đậu bến sông Trăng đó
Có
chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ
khách đường xa, khách đường xa
Áo
em trắng quá nhìn không ra
Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà ?
Bài
thơ mở đầu như “thác” lời của Cúc gửi Tử, rồi là niềm tâm sự của thi nhân với ”
ý trung nhân” – “mặc Nàng không yêu, ta cứ yêu” Nàng Thơ của lòng ta?. Bài thơ
có 2 cái đáng chú ý:
*-1,Nguyên
tác “Ở đây thôn Vỹ Giạ”. Chữ”Ở” Thi sĩ dùng có chủ ý nhằm nhấn mạnh cái tên
Thôn Vỹ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh” (tình yêu với Cúc chỉ là ảo, sương khói
mà thôi…).
*-2,
Về Cô gái trong “Lá trúc che ngang mặt chữ Điền” đó là cô gái do sức tưởng tượng
của Thi nhân mà hiện ra thôi “…Nay ta xem lai di ảnh Nhà Giáo- cư sĩ Hoàng Thị
Kim Cúc (1913-1989) thì đúng là Cúc có khuôn mặt chữ ĐIỀN phúc hậu…chứ không phải
như ai đó (Thang Ngọc Pho và V,V…) quả quyết đó là chữ ĐIỀN- Hán tự đắp nổi ở
“mặt trước phía trên cổng các nhà Quí tộc Huế ” hay ở các tấm bình phong trước
nhà…
Cảm
thương về chàng Thi sĩ tài hoa từng thầm yêu trộm nhớ mình,nay đã khuất…”Hoàng
Hoa thôn nữ” đã âm thầm viết bài thơ ( và ở vậy suốt đời ?) :
ĐỀ TẶNG HƯƠNG HỒN ANH HÀN MẠC TỬ
Bao
năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm
giữ trong lòng một ý thơ
Cũng
biết cách xa ngoài vạn dặm
Tình
anh lưu luyến cảnh quê mơ
Một
mình một cõi với trời mây
Với
cả đau thương với hận này
Anh
khéo lột hết tài nghệ sĩ
Tiếng
vang muôn thuở vẫn còn đây
Hồn
anh lẩn khuất ở đâu xa
Hoa
biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy
sống giữa cảnh đời náo nhiệt
Tình
ai ai vẫn cứ đậm đà.
Đầu xuân Tân tỵ-1941
Hoàng Hoa
NK
tôi vốn yêu thơ Hàn Mạc Tử từ khi còn đi học, mùa hè năm 2006 vào Huế đến Thôn
Vỹ Giạ tìm dấu Người xưa, cảm tác :
HỌA THƠ THÔN VỸ
Đã
bao người họa Thơ Thôn Vỹ ?
Dù
mới ngang qua đã chạnh lòng
Thoáng
nét thôn xưa chừng bỡ ngỡ
Gieo
chút buồn xưa để bâng khuâng
Sao
không về lại…ai kia nhỉ ?
Cứ
như Lá trúc chắn nẻo về
Thà
cứ là mây theo lối gió
Xin
mãi là Trăng trong mộng mê
Ừ,sao
ta không về Thôn Vỹ ?
Tìm
dấu Người xưa để ngẩn ngơ
Tình
như sương khói mờ nhân ảnh
Để
vẩn vơ hoài Thơ với Thơ.
Huế 6 - 2006
Nguyễn Khôi
Bài 22: VỀ CÂU THƠ “MỸ
NHÂN TỰ CỔ NHƯ DANH TƯỚNG”
Giới
làm thơ ngày trước ai mà chả thuộc 2 câu thơ cổ:
Mỹ
nhân tự cổ như danh tướng
Bất
hứa nhân gian kiến bạch đầu
tạm
dịch:
(Người
đẹp từ xưa như tướng giỏi
Chẳng
hẹn chờ ai thấy bạc đầu )
Còn
xuất xứ 2 câu này ở đâu? (Đường thi,Tống thi ư ? chủ nhân của 2 câu thơ bất hủ
đó là của ai ?… thì để còn “hỏi Thầỳ”, tra cứu kho tàng chữ nghĩa Trung Hoa đã?
Rồi ậm ừ qua vài trăm năm… có dư…
Thế
rồi,có một “con mọt sách” ĐỤC xuyên qua cuốn ”Tùy Viên thi thoại” của Viên Mai
(đời Thanh) gồm 16 quyển và 19 quyển “bổ di”- tổng cộng là 26 quyển, dịch ra tiếng
Việt dày ngót 1000 trang, khổ 16×24… đó là một thứ “tùy bút” nhàn đàm về Thơ, với
quan điểm:
Chịu
khó tìm Thơ sẽ có Thơ
Tâm
linh điểm ấy chính Thầy ta
mà
điều kiện cần có của Người làm thơ là 3 chữ “tài, học và thức (kiến thức)- thiếu
1 đều không được !
Tùy
Viên tiên sinh kể rằng: Người bạn (của ta) là Quan Thị độc (cỡ Viện trưởng-cố vấn
cho vua) họ Đông có việc phải rời Kinh thành đi Thiên Tân công cán,qua nhà họ
Tra, gặp Tiến sĩ Đồng Duệ, vị Tiến sĩ này có nói rằng:
-
Thân mẫu Triệu phu nhân, không may sớm là góa phụ, đã ở vậy thờ phụ thân (không
tái giá) nuôi dạy con cái nên người, lại hay chữ nghiã,thường làm Thơ… có bài
tuyệt cú “cúng ông Táo” như sau:
Tái
bái Đông Trù Tư mệnh thần
Liêu
tương thanh thủy tiễn hành tôn
Niên
niên phá ốc đa trần thổ
Tư
nhứ phu vong tử ấu nhân
Tạm
dịch:
Kính
xin thần bếp Đông Trù
dâng
ngài chén nước tiễn đưa cầu trời
Bao
năm phá(nhà) cửa bụi rồi
Hãy
thương mẹ góa con côi một bầy.
Nhân
đó, vị Tiến sĩ này kể thêm: ”Chú của tiểu nhân, có làm bài “Điệu vong cơ”, khóc
Người thiếp (vợ lẽ) qua đời, nhiều người họa lại…trong đó có bài của Người thiếp
họ Đông,tên là Diễm Tuyết, thì thật là tuyệt diệu. 2 câu kết của bài rằng :
Mỹ
nhân tự cổ như danh tướng
Bất
hứa nhân gian kiến bạch đầu
2
câu này,có tứ thơ khá gần với câu sau đây của thi sĩ Lạp Điền (đời Tống) :
Bạch
phát tòng vô đáo mỹ nhân
(mái
đầu tóc bạc từ nay trở đi không bao giờ đến với người đẹp cả…)
Lời
bàn thêm: Thật đúng như Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nói:
Văn
chương là của chung thiên hạ
Ý
mỗi người mỗi khác
Phân
tích thì được
Chứ
không nên chê mắng.
Còn
Andre’ Che’nier (Pháp) thì viết:
Nghệ
thuật chỉ làm nên bài thơ
Còn
trái tim mới là Thi sĩ
Ở
ta,năm 1934 Thi sĩ Leiba (Lê văn Bái) đã tâm đắc:
Người
đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi
nhân đầu bạc sớm hơn ai?
Thế
mới biết tài tử giai nhân xưa nay đều có chung một một “nỗi sầu nghìn thu ” rồi
cùng làm thơ là vậy?
Góc
Thành Nam Hà Nội -25-8-2010
Nguyễn Khôi- thân tặng…
Bài 23: HOÀNG HẠC LÂU – BA
BẢN DỊCH ĐỘC ĐÁO
Trong
” Toàn Đường Thi” ( gồm42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường)-Nếu chỉ lấy 1
bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là “Hoàng Hạc Lâu” cuả Thôi Hiệu
?
“Hoàng
Hạc Lâu” thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo
này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu ( Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm
Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ
Vụ phó ngày nay ).Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc,rượu chè “của lạ” (thay vợ đến
4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy,đến cuối đờiphong thái cốt cách mạnh mẽ
rắn rỏi,sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm ,Bão Chiếu…Ông khổ vì ngâm vịnh
đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ là vậy);Bạn ông nói đùa
” không phải Bác bệnh đến như vậy,bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy thôi” !
Lầu
Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc,vốn là “tửu quán” -đó là 1 trong tam đại
danh lâu của xứ ” Giang Nam hảo “nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống
rượu và làm thơ…Theo sách ” Cổ đại thi tứ cố sự” thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac
Vàng ở tư thế : thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, “Tình Xuyên Các” bị
che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày…
Thầy
giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả “Lầu”,
còn 3 câu kia đều tả “người xưa”… trong đó câu 1 là tả “người xưa”, câu 3 là
nghĩ “người xưa”, câu 4 là ngóng “người xưa”, cứ như phớt lờ không nhắc gì đến
“lầu”.Câu 5-8 tiền giải là tả “người xưa”, hậu giải tả “người nay”, tuyệt nhiên
không tả đến “lầu”… Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của
mình.Rồi “hương quan hà xứ thị” (ở nơi này) với cây thì “lịch lịch” (in rõ),
bãi thì “thê thê” (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng “hương quan” là không biết
“hà xứ” (nơi nào).Rồi với hai chữ “nhật mộ” (chập tối lúc chim về tổ, gà vào
chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy
múa tạo nên tuyệt tác để “đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc
lấy hổ thẹn.”
Vâng,
đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu
(câu 2).Câu 3 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” là câu rất đặc biệt: dùng liên
tiếp 6 chữ “trắc” trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy
khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? – để nhấn mạnh cái
ý “tiền bất kiến cổ nhân”
–
“nhất khứ” là một đi – “bất phục phản” là không trở lại… câu này nói lên cái lẽ
vô thường của mọi người, mọi việc.
Câu
3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa
Hoàng
Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu
biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu
“thôi miên” ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ “dịch” nó, đến
nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý
là:
1- Bản dịch của
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
(Nam
Phong tạp chí – năm 1923)
Người
tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở
đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc
Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây
trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông
bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ
lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày
chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây
nước trên sông khách thẫn thờ.
Đây
là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc
Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ
sai niêm, thất luật.
2. Bản dịch của Tản Đà
In
ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937
Đay
là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu
lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt
nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một
chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã
bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca
dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy,
nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?
3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương
Xưa
Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay
lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng
tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng
một màu mây vạn vạn đời.
Cây
bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ
bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần
xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng
giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Như
ta đã biết : Thôi HIệu (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần
công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh “trắc” liên tiếp mới nói được:
Hoàng
Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch
Vân thiên tải không du du
Để
đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc)
chịu thua, cúi đầu ra đi…
Còn
thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng
con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó
quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai
câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:
Vàng
tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng
một màu mây vạn vạn đời
Một
màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi,
không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con
người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối “đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là
cả một trời Đường thi bỗng lay động”. Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của
Vũ thì chắc cũng bái phục: “Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là
sóng của bể dâu, hưng phế.”
Ta
thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:
–
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
–
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Thì
sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:
–
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Nếu
đưa chữ “hạc” lên đầu câu:
–
Hạc vàng tung cánh đi đi mãi
Thì
cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế – và có lẽ sau Vũ Hoàng
Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?
Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010
Nguyễn Khôi – Cẩn bút
Bài 24: LÝ BẠCH VỚI ANH VŨ CHÂU
Lý
Bạch (701-762), người thơ số 1 đời Đường,
làm thơ tới mức xuất thần nhập hóa, người đời gọi là “Thi tiên”. Thơ Lý Bạch
thường giống như mưa và gió tranh nhau bay, rồng cá biến đổi trăm lần, lại như
sông lớn không có gió mà sóng tự gào, mây trắng trên không thay đổi theo gió,
đúng là có thể nói quái dị lớn lao- đại danh bao trùm vũ trụ là vậy. Đỉnh cao Đời
và Thơ của ông gắn với thời Thịnh Đường (Vua Đường Huyền Tông),sau loạn An- Sử
(755-761) sang đời Vua Túc Tông, vì dính vào vụ Vĩnh vương Lân- năm 758 ông bị
biếm trích tới Dạ Lang (Quý Châu). Trên đường đi đày qua Bãi Vẹt (Anh Vũ
Châu) bên bờ bắc sông Trường Giang, gần
Hán Dương (Hà Bắc) thời Tam Quốc đây thuộc Đông Ngô nên khúc sông này gọi “Ngô
giang”…Đây chính là nơi cai trị của Thái thú Giang Hạ “Hoàng Tổ”, con trai trưởng
ông ta là “Xạ” làm Thái thú Chương Lăng, một hôm bày tiệc trên bãi sông; có người
dâng chim Anh Vũ (Vẹt), Thái thú Xạ đưa lồng chim cho danh sĩ Nễ Hành và nói ”
-xin tiên sinh làm bài Phú tả cho”- Nễ Hành hạ bút viết liền một mạch thành bài
Phú, không ai thêm bớt được chữ nào, ngôn ngữ vô cùng diễm lệ. Sau Nễ Hành bị
Hoàng Tổ giết, từ đó có tên “Anh Vũ Châu” để ghi lại sự tích bi tráng trên ?
Lý trích tiên, sau cái lần “đăng Hoàng Hạc
Lâu” thấy thơ Thôi Hiệu ở trên đầu, rồi “đạo bất đắc” cúi đầu ra đi trong lòng
còn vương vấn ” bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ thơm” thì nay lại đứng giữa ngay cái
“phương thảo thê thê” này, nhớ tích xưa, đang cảnh đi đày, Thi sĩ cảm khái hạ
bút :
Anh Vũ lai qua Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi Lũng Sơn khứ
Phương Châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan diệp hương phong khởi
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thì đồ cực mục
Trường khâu cô nguyệt hướng thùy minh
-Anh Vũ Châu
Dịch :
BÃI ANH VŨ
Xưa chim Anh Vũ đến Trường Giang
Anh Vũ đến nay bãi nổi danh
Anh Vũ về tây , qua núi Lũng
Bãi thơm mượt lá sao xanh xanh
Khói tan, Lan hiện gió thơm nổi
Đào nở bờ liền sóng gấm lan
Khách biếm trông hoài non nước thẳm
Vì ai trăng sáng mãi mênh mang
(Trần Văn Nhĩ)
“Anh
Vũ Châu” không phải là tuyệt tác của Lý Bạch, nó xếp sau Hoàng Hạc Lâu của Thôi
Hiệu với cái duyên nợ cùng “phá luật thi” : câu 3 và câu 4 trong nguyên bản
“không đối” về ý và từ. Theo Kim Thánh Thán thì :
(1-4) Tiền Giải (đi từ không đối đến đối) giải
này hẳn là mô phỏng Hoàng Hạc Lâu, nhưng chữ “khứ” lại lạc đến cuối câu 3, đó
là “một con cua không giống một con cua vậy, nhất giải như nhất giải”.Nhờ được
7 chữ của câu “Phương châu” mà chợt nổi lên mạnh mẽ, nếu không thế thì chỉ như
một ông lão hèn cất bút ngâm vang, mong sao khỏi đói.
Lý
tiên sinh anh hùng khi mà người thường không tự tiếc làm như vậy-“phương thảo
chi thụ hà thanh thanh” chỉ với 7 chữ đó mà làm cho ngoời ta lòng mắt mờ mịt biết
bao, không xét đến khói, đến như vậy là hết nước .
(5-8) Hậu giải :(đối đến không đối) : Các câu
5 -6,”lan điệp…phong khởi”,”đào hoa lãng sinh”, chính là 2 chữ “thử thời” (lúc
này) trong “thử thời cực mục” vậy. Chữ “phong”, chữ “lãng” nói rằng : ta muốn
đoạt thuyền căng buồm, hô gió phá sóng thẳng lên Kinh đô Tràng An (nơi Vua ở,
hi vọng được trọng dụng ) bức xúc lắm rồi, ta không thẻ chờ đợi 1 khắc( giờ)
nào được nữa (ảo mộng ), thế nhưng “mây nổi kín trời, trăng sáng không soi (cô
nguyệt )-đó là thực tại cô độc phũ phàng, vô vọng, thì rốt cuộc không biết làm
sao ? Bi kịch là tuy”oán” mà không dám “chê” bai Thánh chủ (nhà Vua đã sai chém
đầu Lý Bạch vì tội đi làm mưu sĩ cho Vĩnh vương Lân làm phản triều đình !
? -Sau thấy oan đã ân xá) cho nên mới hỏi”trường
châu cô nguyệt”(trăng lẻ bãi dài )..
Chao ôi, Thơ là Người, thơ là Đời…là thân phận
con người bị sóng gió cuộc đời dập vùi, nên dù lãng mạn như Lý tiên sinh thì vẫn
phải chịu cái đau nhân thế phũ phàng,chính trong cái cảnh bi phẫn ấy Nhà thơ đã
viết “Anh Vũ Châu” để gửi gắm niềm tâm sự ” với cái sầu nghìn thu” làm sao mà
giết được ? !
Góc Thành Nam Hà Nội 26-3-2011
Nguyễn Khôi
Bài 25: ĐỌC LẠI BÀI THƠ LÝ BẠCH: “TẶNG UÔNG LUÂN”
Tương
truyền đời nhà Đường, vào năm Thiên Bảo thứ 13 (754) có Uông Luân là một Hào sĩ
ở Kinh Xuyên, tuy tài năng không thể so sánh với Lý Bạch, nhưng ông cũng là
dòng dõi hào kiệt, đã từng làm Huyện Lệnh ở Kinh huyện, rất thích giao du với
các danh sĩ, hết sức mến mộ Lý Bạch: Nghe nói Lý Bạch sắp đi chơi qua đây, Uông
Luân bèn gửi thư đón mời và trong thư có nói dối rằng:”Tiên sinh thích ngao du
chăng?- ở đất này có vạn nhà hàng rượu”…Lý Bạch vui vẻ mà đến, Uông Luân bèn nói thật rằng :”Đào Hoa đây là
tên một cái đầm (đàm),thật không có hoa đào gị cả. Vạn nhà đây chỉ có “tửu điếm
họ Vạn”, chứ thật không có hàng vạn quán rượu nào đâu”…Lý thi nhân nghe xong bật
cười to, ở lại chơi vài ngày. Sau đó, Uông Luân tặng 8 con ngựa và 10 cuộn gấm
đẹp rồi đích thân tiễn đưa. Lý Bạch cảm vì chân thành nên hạ bút xuất thần bài
“tuyệt cú Đào hoa đàm đề”:
TẶNG UÔNG LUÂN
Lý Bạch thừa chu tương dục hành
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh
Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích
Bất cập Uông Luân tống ngã tình .
Dịch :
Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền
Trên
bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca
Nước đầm nghìn thước Đào Hoa
Uông
Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều
-Tản Đà (1938)
Lý
Bạch thuyền chèo sắp vượt ra
Trên
bờ lanh lảnh tiếng thanh ca
Đầm
Đào thăm thẳm sâu nghìn thước
Khôn
đọ tình Uông tiễn tống ta.
-Trúc Khê (trước 1945)
BÌNH
:Đây là sự cảm kích của Lý Bạch đối với Uông Luân lúc chia tay, bài thơ gây xúc
động lòng người.
-Câu
1; tác giả tự nói về mình. 3 chữ “tương dục hành” là diễn tả cảnh bịn rịn tiễn
biệt…
-Câu
2: chữ “hốt” là sự “chuyển” sang động thái lên đường, thật là có “thần” (không
tả mình mà tả chủ nhân với cử chỉ “đạp ca”- một lối hát dân gian nhiều người
cùng dang tay nhau và giậm chân làm nhịp – như kiểu “xòe Thái” hay Lăm Vông Lào
?)
Chữ “thanh” là chỉ tác giả (người được tiễn)
nghe thấy…cùng lúc lên thuyền (thừa chu).
-Câu
3: bút lực của Thi hào đã “chuyển” vào cõi trời đất (đàm thủy).
-Câu
4: là bút pháp đảo ngược lấy cái sâu của đầm Đào Hoa ví với cái thâm tình của
Uông Luân.
Toàn bài nổi bật 2 chữ “tương” và “hốt”,
đó là dạng “nhãn tự” (chữ mắt) như có thần tỏa sáng cả bài thơ.
Truyện Sử còn kể tiếp : đến đời nhà Thanh
(Khang Hi thứ 55 ) trở đi, Nhà Thơ Viên Mai (1716-1797) đã chép :”Ngày nay thì
đầm Đào Hoa đã cạn, đường qua đây đã tắc nghẽn, Nhà thơ Trương Tĩnh Trai đã cảm
thán rằng (xin chép băn dịch) :
Rừng vắng ve chuyền chiếc lá rơi
Đào Hoa nẻo ấy dễ tìm thôi
Lạ gì tình bạn nay hời hợt
Đầm cũ xem ra cạn khác rồi.
-Trương Đình Chi (dịch)
Chao ôi, “tình bạn ngày nay đã khác xưa/
nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa”…Đọc lại thơ Lý Bạch, ngẫm thời thế mà buồn vui
lẫn lộn thật khó tả làm sao ?
Góc Thành Nam Hà Nội 17-9-2006
Nguyễn Khôi
Bài 26: ĐỌC LẠI “TUYỆT CÚ”
CỦA ĐỖ PHỦ
“Tuyệt
cú” là tên một thể loại Thơ cổ Trung Hoa có từ thời Lục Triều (439-581), nhưng
phải đến đời Đường, đặc biệt là dưới triều Khai Nguyên -Thiên Bảo (712-756) Đường
Huyền Tông thì Tuyệt cú Đường thi mới đạt đỉnh cao…”tuyệt” ở đây có nghĩa là “dứt”
dùng để đối lập với chữ “liên” (=liền).Tuyệt cú gồm các loại thơ ngũ ngôn, lục
ngôn,thất ngôn 4 câu tạo thành 1 bài, dùng vần bằng hoặc vần trắc.
Đỗ
Phủ có 4 bài Tuyệt cú, chọn 1 bài :
Lưỡng
cá Hoàng Ly minh thúy liễu,
Nhất
hàng Bạch lộ thướng thanh thiên;
Song
hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn
bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.
dịch
nghĩa :
Hai con chim Oanh vàng kêu ( hót ) trong cụm
liễu xanh,
một hàng cò trắng bay trên lưng chừng trời;
Trước song
ngậm tuyết nghìn thu ở núi Tây Lĩnh,(1)
Ngoài cửa thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đậu.(2)
Đây là bài “Tuyệt Cú” Đỗ Phủ làm năm 764, lúc
trở lại Thảo Đường ở Thành Đô ( Thục). 4 câu đều đối. Mỗi câu 1 cảnh: -(1) chỉ
núi Dàn Sơn phía tây Thành Đô,tuyết phủ quanh năm không tan, câu này có nghĩa
là: cửa sổ ngó ra núi,như ngậm lấy núi cho nên nói ” song hàm”.
-(2)
Sông Thục chảy về phía đông, từ Thành Đô lên thuyền có thể đến đất Đông Ngô (
Giang Tô ): Đỗ Phủ có ý muốn rời Thục đi Ngô.
*-1-Bản
dịch của Tản Đà :
Hai
cái Oanh vàng kêu liễu biếc,
Một
hàng cò trắng vút trời xanh;
Nghìn
năm tuyết núi song in sắc,
Muôn
dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
Đây
là bản dịch ĐẸP…nhưng Tản Đà “tác” mạnh hơn “dịch” ? Dịch chữ “cá” là”cái”,
“minh” là “kêu” không sai,nhưng ít vẻ thơ; câu 3 đưa thêm “sắc” không có trong
nguyên bản.Đặc biệt câu 4 đưa thêm vào “rập rình” là hoàn toàn gượng gạo, nhầm
vần với chữ “xanh” ở câu 2 ?
*-2-
Bản dịch của Tương Như :
Liễu
xanh hót cặp Oanh vàng,
Trới
lam trắng điểm một hàng cò bay;
Song
lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền
Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài.
Đây là một dạng “diễn Nôm” theo gót Tố Như
tiên sinh khi sáng tác Truyện Kiều…phải nói là “đẹp mượt” tuyệt tác…nhưng hơi
xa nguyên tác ( Việt hóa đến cao độ ) làm giảm mất cái thần khí cao sang -đặc
trưng về thể loại Tuyệt Cú Đường thi .
*-3-
Bản dịch của Lê Kim Giao ( Nhà thơ Hà Nội ) :
Liễu
biếc Oanh vàng đôi chiếc hót,
Trời
xanh cò trắng một hàng lên;
Song
in Tây Lĩnh nghìn thu tuyết;
Cửa
đậu Đông Ngô vạn dặm thuyền.
Ai
đã từng vào dầm mình trên bãi biển Lăng Cô (làng cò Thừa Thiên-Huế) 1 trong 3
bãi biển đẹp nhất Việt Nam, rồi chợt trông lên : chiều tà hắt nắng hè, xa xa một
đàn cò trắng bay lên ngang trời in trên
nền dãy núi Hải Vân đệ nhất hùng quan xanh thẳm…tai nghe đôi hồi tiến
Oanh hót trong các bụi Liễu nơi Resort bên bờ, ngoài khơi một chút là các con
thuyền về đậu dập dờn trên sóng biẻn xanh…bỗng nhiên trong đầu ta ( Thi nhân)
vang lên bài Tuỵêt Cú của Đỗ Phủ với bản dịch của Lê Kim Giao thì quả là tuyệt
diệu như thưởng thức một bữa tiệc tâm hồn ( thơ) đầy ý vị…một bản dịch mới lạ ?
!
Cái dụng ý “thi trung hữu họa” dùng MÀU TRÊN
MÀU mà tác giả và dịch giả đồng cảm đó là “màu xanh của trời (xa), làm nền cho
màu xanh của Liễu (gần), màu trắng cuă tuyết (xa) với màu trắng của cò (gần) mà
chính do độ co giãn của tầm mắt(nhìn) xa/gần nên ta hoàn toàn tưởng tượng ra độ
đậm nhạt ấy, rồi thú vị biết bao khi ta lại thấy màu vàng của đôi chim Hoàng Ly
đan xen vào làm bức tranh thành tuyệt mỹ.”
“Tuyệt cú ” của Đỗ Phủ là viên ngọc trong Đường
thi, bản dịch của Lê Kim Giao sau 1000 năm vấn rất tri âm tri kỷ, tài hoa xảo diệu…âu
cũng là cái độc đáo xuất thần của chàng Công tử Hà Thành- thi sĩ Lê Kim Giao vậy
chăng ?
Góc Thành Nam Hà Nội –
3/10/2010
Nguyễn Khôi – cẩn bút…
Bài 27: ĐỌC LẠI THƠ VIÊN
MAI: “LẬP THÂN TỐI TIỂU THỊ VĂN CHƯƠNG”
Xưa
& Nay ở Việt Nam ta trong giới làm thơ vẫn truyền tụng 2 câu thơ của Viên
Mai:
Mỗi
phạn bất vong duy trúc bạch
Lập
thân tối hạ thị văn chương
(mỗi
bữa không quên ghi thẻ trúc,
Lật
thân thấp(hèn) nhất ấy văn chương)
-trúc
bạch=tre và lụa,người xưa chép Sử(thơ) bằng thẻ tre hoặc lụa,khi chưa có giấy
viết,nên gọi Sử là ” thanh sử”(Sử xanh).
Nguyên
tác của 2 câu thơ đó theo Viên Mai trong “Tùy Viên thi thoại” quyển XIV-đoạn 66
được Trương Đình Chi dịch in ở thoại 449,trang 662 nxb VN tp HCM thì :”Tôi lúc
còn bé, trong một bài thơ “vịnh hoài”(nói lòng mong muốn) có câu rằng:
Mỗi
phạn bất vong duy trúc bạch
Lập
thân tối tiểu thị văn chương
Giải
: mỗi bữa ăn không quên nghĩ đến tre lụa ( sử xanh),
Xây
dựng danh tiếng nhỏ bé nhất là làm văn chương.
Dịch:
Mỗi lúc hằng mong ghi Sử sách,
Lập
thân nhỏ nhất ấy văn chương.
Viên
Mai (1716-1797) quê Tiền Đường (Hàng Châu) đỗ Tiến sĩ và làm Quan Tri huyện.
Năm 40 tuổi cáo quan về ở ẩn trên núi Tiểu Thương Sơn ngồi viết “Tùy Viên thi
thoại” (nói truyện thơ ở vườn Tùy) và “Tử bất ngữ”(cái gì cụ Khổng chẳng nói
thì ta nói )…
Cái
thú vị, tai quái của văn chương là “ẩn dụ”- ý tại ngôn ngoại vận dụng vào tùy
thời thế, hoàn cảnh mà “ám” vào với thân phận của người thưởng thức …mà nói thế
nào cũng được? từ tốt sang xấu, từ “cực” nọ sang cực kia vẫn chỉ là tác phẩm ấy,
câu thơ ấy!
Câu
” lập thân tối tiểu…” có người nói là : Ông khuyên chúng ta nên đi nghề võ, nghề
buôn (kẻ cả buôn Vua) gì đấy, chứ đừng nên học hành văn chương thi đỗ dấn thân
vào chốn Quan trường ( ở Việt Nam ta tấm gương tày liếp là gia đinh Tiến sĩ Ngô
Thì Sĩ- Ngô Thì Nhậm,cánh Nhân Văn Giai Phẩm…).Theo thiển ý của NK : hiểu thế
thì e đơn giản quá? Viên Mai thâm Nho hơn nhiều. Lập ngôn là sáng tác văn
chương , “tối tiểu” ở đây là đầy ý khinh miệt. Ý của Viên Mai là ám chỉ những kẻ
làm nên Quan chức quyền nghiêng thiên hạ là nhờ vài ba cuốn sách xu thời, dăm
báy bài thơ”nịnh”Đức Vua… rồi cứ thế mà hưởng trọn đời (ăn hại tiền dân đóng
thuế)?!
Ở
Trung Hoa xưa & nay…cứ sau một vụ án Văn chương là khiến cho bao người cầm
bút run sợ, tự gác bút hoặc có viết thì tránh xa sự thật, làm trò “Phu Chữ”, chạy
vào thơ “tình yêu”(già cốc ra rồi vẫn còn “anh anh /em em” cứ như thuở mới đi
tìm “lá diêu bông” ấy!)…Yên thân hơn cả là “di chúc ” cho con cháu chỉ sống bằng
nghề làm ruộng hoặc đi buôn, không cả thèm đi học và tránh xa chốn Quan trường?!
Ô
hô, i hi…Viên Mai quả sâu sắc là vậy!
(Trích ” Bắc
Ninh Thi Thoại”)
Góc
Thành Nam Hà Nội, 5 tháng 10 năm 2011.
NGUYỄN KHÔI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét