Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

BẮC NINH THI THOẠI / Nguyễn Khôi


       Mừng Nhà văn Nguyễn Khôi sinh nhật tuổi 84 tuổi (26/12/1938 - 26/12/2021), trân trọng trích giới thiệu tác phẩm “Bắc Ninh thi thoại” của tác giả…

 



       PHẦN I: NỘI BIÊN

 

       Bài Thứ 1 – SUY NGHĨ VỀ THƠ

 

       Thơ – là một bài văn gồm những câu ngắn, dài (có vần hoặc không vần) có thanh âm từ điệu của một thứ tiếng mà nhà thơ sáng tác ra, thường theo những niêm luật nhất định. Người ta thường hay nói “thơ ca”, nhưng cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa thơ và ca. Nếu Ca diễn tấu ca ngợi một cái đẹp thì Thơ với ý tứ sâu xa, với cấu trúc độc đáo được kết tinh từ cái đẹp đó làm cho mọi người ngây ngất chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền diệu tâm linh rất thơ đó.

       Có nhiều cách định nghĩa về thơ:

– Thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tim. Một bài thơ là một cõi thế giới.

– Thơ là một thể loại văn học sử dụng vần điệu, hình ảnh, tình cảm, để thể hiện một tư tưởng nào đó.

– Thơ là tiếng lòng, là sự giãi bày (tiếng nói độc bạch) để diễn tả nỗi oán than, một niềm vui, một nỗi nhớ, một suy tưởng (còn tiểu thuyết là đối thoại, nhiều tiếng nói, nhiều bè, hoà nhịp với nhau, cãi nhau, đối chọi nhau)

– Thơ là tiếng vọng của tâm hồn (là bữa tiệc của tâm hồn).

– Thơ là tiếng hát, nhà thơ là người hát rong. Hát lên niềm khao khát cuộc sống, tình yêu, tự do. Người làm thơ trước tiên phải có cảm hứng mãnh liệt (thi hứng) và phải biết làm thơ theo đúng nghĩa của nó (vì thơ là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ) tức là phải nắm những đặc trưng (thi pháp) của thơ để mà vận dụng khi sáng tác. Đó là về:

+ Cấu trúc trùng điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa)

+ Kiến trúc đầy âm thanh

+ Nhiều khoảng trắng trên không gian in thơ (nhằm tạo ra cách nói “Thơ một chút” – thơ kỵ lộ liễu - để thơ có nhiều khoảng “lặng” tạo ngân vang cái “ý chưa dứt làm day dứt lòng người”.

+ Thơ phái có chất nhạc tràn đầy và cần cái ảo đan xen cái thục (sản phẩm của trí tưởng tượng) trong thơ.

 

Thơ Tàu trọng ý tại ngôn ngoại, còn Thơ Việt ta là tình thì kín mà ý thì sang.

Tâm hồn là hoa, còn thơ là quả. Hoa đẹp nhưng chưa chắc đã có hương thơm, cũng như tâm hồn mãi nhưng chưa chắc thơ đã hay.

Thơ chắp cánh cho con người bay bổng, do đó mới gọi là “hồn thơ” là vậy. Tức cảnh sinh tình tạo thi hứng cho nguồn thơ dào dạt tuôn trào như suối, như sông là thế.

Thơ không phải của riêng ai, nhưng không phải ai làm thơ cũng thành nhà thơ. Mỗi nhà thơ có phong cách ý vị riêng. Thơ chí là lều lán tới nhà và lâu đài, ngọn núi… và dù chỉ một vài bài, thậm chí chỉ một câu cũng tạo được đỉnh cao, dấu ấn của thời đại và khắc sâu vào hồn người – thơ bất tử là vậy

       Xứ Bắc Ninh ta: Người làm thơ (so với xứ khác) không nhiều nhưng nhà thơ có tên tuổi thì lại không ít.

       Đất Bắc Ninh hẹp (hiện nay bé hơn cả thủ đô Hà Nội), nhưng là nơi địa linh, nhân kiệt. Là lỵ sở đầu tiên của quận Giao Chỉ, nơi sinh ra Lý Công Uẩn – người quyết định ban Chiếu dời Đô về thành Đại La, lập nên kinh đô Thăng Long, nghìn năm văn hiến. Từ vị trạng nguyên đầu tiên của nước Nam ta (Lê Văn Thịnh), những thi sỹ tiên khởi với những văn ánh thơ đẹp, bất hủ của nước Đại Việt ta thì nhiều đấng tài hoa ấy được sinh ra ở đất Bắc Ninh - Kinh Bắc này.

Làm thơ là làm việc của riêng mình. Viết Thi Thoại là làm việc chung cho mình và cho mọi người... Bắc Ninh Kinh Bắc ta, xưa nay chưa có Thi xã và cũng chưa có ai làm Thi Thoại.

Kẻ hậu sinh Nguyễn Khôi ở làng Đình Bảng này cúi xin các bậc tiền nhân ông cha thủa trước, nghiêng mình xin phép các anh các chị thi nhân kẻ sỹ đương thời của tỉnh nhà, mạo muội căm cụi viết một quyển Bắc Ninh Thi Thoại gọi là điểm dẫn, sưu tầm, hệ thống lại, có đôi lời cảm nhận (theo thiển ý) để góp vui cho nhũng người đồng hương trong lúc vui chơi giải trí khi ly rượu, chén trà “nghênh phong thưởng nguyệt” với hồn quê Kinh Bắc, sâu sắc tình đời. Có điều gì thô lậu mong bạn đọc quê hương lượng thứ.

 

       Bài Thứ 2: THƠ VẠN HẠNH

 

Thơ là tiếng lòng tự nhiên bột phát ra (ứng khẩu hoặc viết nên lời) đó là một cách hay tự nhiên và cũng dễ đạt ý tại ngôn ngoại, có người gọi đó là cách viết vô thức, xuất thần. Một cách hay khác là nguòi viết có chú ý, sáng tác có ý tưởng, mục đích hẳn hoi (có khi viết theo “đơn đặt hàng”) lấy tài đức tâm. Cũng không quên trường hợp toàn bích.

       Vạn Hạnh thiền sư (?-1018) người làng Cổ Pháp (Đình Bảng – Từ Sơn – Bắc Ninh) tương truyền ông là cha đẻ ra triều Lý (1009-1225). Thủa nhỏ Vạn Hạnh thông minh khác thường học thông tam giáo theo học Đạo với Thiền ông đạo giả ở chùa Lục Tổ hương Dịch Bảng. Sau đó Thiền Sư Vạn Hạnh chuyên tâm tu tập kinh Tổng tri tam ma địa, phép thiền định của Phật Giáo để giữ thiện pháp.

       Thiền sư được vua Lê Đại hành đặc biệt tôn kính. Bấy giờ được coi là nhà tiên tri, thơ văn lời nói được coi như sấm ngữ.

       Ví dụ trước trận đánh Tống năm 980, vua hỏi, sư nói:“chỉ trong Ba Bảy (21) ngày giặc tất lui”. Quả nhiên đúng một tháng sau giặc đại bại. Khi phía Nam nước ta có giặc Chiêm, vua hỏi, sư nói:“nên đi ngay sẽ thắng”. Quả nhiên thắng lớn.

Sau Lê Ngoạ Triều lên ngôi, tàn ngược độc ác, trời người đều giận. Lúc ấy ở châu Cổ Pháp (sau đổi là Thiên Đức) có Lý Công Uẩn đang làm Thân Vệ trong triều. Lý Công Uẩn vốn trước là con nuôi của Lý Khánh Văn, một Thiền sư từng thọ giới với sư Vạn Hạnh ở Cổ Pháp.

Thiền sư Vạn Hạnh đã làm nhiều thơ, dưới dạng phú sấm, huyền thoại, tạo tâm lý để Lý Công Uẩn lên ngôi. Vạn Hạnh đã tận dụng mọi cơ hội để cổ vũ cho sự kiện: “Thái tổ nên vương sáng nghiệp đầu”. Từ sự giải thích điềm lạ xoáy lông trên con chó trắng (năm Tuất -1010), đến giảng giải ý nghĩa hình chữ thiên tử trên cây gạo bị sét đánh.

       Tài trí sâu xa uyên bác của Thiền sư chẳng những nắm vững thiên cơ vận nước, nắm vững chữ thời trong Kinh Dịch mà còn quyết đoán chính xác trong ngày giờ cụ thể.

       Khi thiền sư mới nhập định bên cạnh ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương, bỗng nghe văng vẳng tiếng thơ ngâm:

Thiên đức giàu sang no đủ khắp

Giữa trời sao Nữ, Thánh quân sinh

Thánh quân sinh ở đây chỉ Lý Công Uẩn ra đời lên ngôi. Sư còn nói rõ: “có lẽ chỉ trong vòng ba tháng nữa quan Thân Vệ về, sẽ chống đỡ xã tắc cầm giữ ấn chữ Quốc”.

       Có bài thơ sấm còn nói rõ:

Lục nguyệt, Tuất niên ngược bóng rồng

       Nghĩa là Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi vào tháng Sáu năm Tuất (1010).

       Có giai thoại kể rằng Thiền sư biết rõ ngày Lý Công Uẩn lên ngôi.

Lúc đó Kinh đô còn ở Hoa Lư – rất xa Cổ Pháp. Vào một ngày, Thiền sư nói với chú và nguòi bác của Lý Công Uẩn rằng “Thiên tử đã băng hà. Lý Thần Vệ đang ở nhà. Nhưng nội trong ngày, Thần Vệ ắt sẽ được thiên hạ”, chú bác Lý Công Uẩn nghe xong lấy làm lo sợ, sai người xuôi gấp về Hoa Lư, xem ra sao, thì quả đúng như lời Sư nói.

Thơ Sấm của Vạn Hạnh thường ngắn gọn, giàu hình ảnh, ý tứ sâu xa hàm xúc.

Tật lê trầm bắc thuỷ

Lý tử thụ Nam thiên

Tú phương can qua tĩnh

Bát biểu hạ bình an

 Dịch:

       Tật lê chìm biển bắc

Cây lý mọc trời Nam

Bốn phương binh đao lặng

Tám hướng chúc bình an

       Vạn Hạnh dùng hình ảnh cây lê chỉ nhà Lê, cây lý (mận) chỉ họ Lý. Lê chìm, Lý mọc. Lại có cả những câu sấm huyền bí, chiết tự chữ Hán:

       Nguyên văn: “nhập khẩu thuỷ thổ khú ” là chiết tự chữ Cổ Pháp. Rõ ràng thiền sư Vạn Hạnh đã dồn cả tài năng nhiệt huyết cho sự lên ngôi của nhà Lý.

       Trước lúc “Tịch”, Vạn Hạnh còn để lại một bài “Kệ” Thị đệ tử (Bảo đệ tử)

       Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

Thịnh suy nhu lộ thảo đầu phô

 Nghĩa là

       Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi, tiết thu lại héo

Đã tu đến trình độ Nhậm vận thì không

sợ hãi trước sự thịnh suy dời đổi

Thịnh suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ

 Tạm dịch thơ

       Thân như ánh chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu héo cong

Chớ thấy thịnh suy mà sợ hãi

Như trên đầu cỏ hạt sương trong.

       Sau này Lý Nhân Tông đã có bài kệ ghi nhận công lao Vạn Hạnh:

       Vạn Hạnh thông ba cõi

Lời sư nghiệm sấm thì

Từ làng quê Cổ Pháp

Chống gậy trấn Kinh kỳ.

 

Bài Thứ 3 – THƠ ĐỜI LÝ: ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC NỞ CÀNH MAI

 

Theo truyền thuyết, Lý Công Uẩn lúc còn là chú tiểu hay nghịch, một hôm bị thầy phạt, trói bắt nằm dưới đất. Đêm khuya muỗi đốt không ngủ được, liền tức cảnh làm một bài thơ:

       Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên

Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên

Dạ thâm bất cảm truòng thân túc

Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên

Tạm dịch

Trời làm chăn gối, đất đệm lung

Nhật nguyệt cùng ta ngủ trước song

Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi

Chỉ sợ sơn hà xã tắc rung

Đây có thể chỉ là huyền thoại, do các nhà sư đặt ra để gán cho vị vua đầu tiên của nhà Lý.

       Thú vị khi đọc bài thơ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh bảo mọi nguòi) của Lý Trường (Mãn giác thiền sư (1051-1096) đã “lão, bệnh” mà lạc quan thể hiện tinh thân vô ứng và phi cứu cánh của đạo Phật. Hình tượng cành mai tươi đẹp trong thơ đã phô bày tất cả sụ đam mê, ham sống của con nguòi giũa thế giới hiện hữu, đầy siêu thoát và bí ẩn như thực lại như hư:

       Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa tươi

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước nở cành mai

       Con ngưòi trong thơ thiền là con ngưòi có trí tuệ, có bản lĩnh nghị lực và sức mạnh, có thể tự mình giác ngộ chân lý một cách độc lập, dám đối diện với vũ trụ và làm cho vũ trụ biến đổi trưóc tác động của mình với một khí thế xung thiên táo bạo, thật phóng khoáng biết bao khi đọc những câu:

       Nam nhi tụ hữu xung thiên chí

Hựu tưỏng Như Lai hành xú hành

(Làm trai có chí xông trời thẳm

Dẫm vết Như Lai luống nhọc mình)

       (Thơ của Quảng Nghiêm thiền sư (1121-1190) tu ở chùa Thành An huyện Thuận Thành Bắc Ninh).

       Cách đây gần 1000 năm, ông bà ta có sùng đạo Phật, nhưng do hiểu được mệnh trời (tri thiên mệnh, nên đã có quan niệm, bây giờ nghe rất lạ, phê phán cái mê cái hoặc đương thời, bảo ban con cháu đừng mắc vào “cái vòng luẩn quẩn” cầu sự thoát tục:

       Sinh lão bệnh tử

Lẽ thường tự nhiên

Muốn cầu siêu thoát

Càng trói buộc thêm

“mê” thì cầu Phật

“hoặc” thì cầu Thiền

Chẳng cầu Thiền Phật

Mím miệng ngồi yên

(Thơ “Sinh Lão Bệnh Tử” của Ngọc Kiều – Ni sư Diệu Nhân chùa Phù Đổng Bắc Ninh).

       Thế tục và tôn giáo hoà đồng vào với nhau, tồn tại trong trạng thái như có như không

       Sắc là không không tức sắc

Không là sắc, sắc tức không

Sắc không đều chẳng quản

Mới khế hợp nhân tông

       (Thơ của Nguyên Phi Ỷ Lan vợ của vua Lý Nhân Tông).

       Thơ thiền xứ Kinh Bắc đã góp phần đem đến một nội dung tư tưỏng mới, nói lên tâm tư tình cảm của tầng lớp trí thức xã hội đông đảo và quan trọng đương thời, đại diện của một dân tộc, một xứ sở trong một thời đại hào hùng xây dựng và bảo vệ tổ quốc Đại Việt, triết lý về vũ trụ và nhân sinh trong một tinh thần nhập thế tích cực.

 

Bài Thứ 4: HÀN THUYÊN – HUYỀN QUANG

 

Tiến sỹ Nguyễn Thuyên người thôn Lai Hạ huyện Gia Lương (Lương Tài) tỉnh Bắc Ninh, năm 1282 đời vua Trần Nhân Tông đã làm bài văn tế cá sấu bằng chữ Nôm rồi ném xuống khúc sông Lô, tương truyền đã đuổi đuọc cá sấu đi. Tiếng tăm Nguyễn Thuyên càng thêm lùng lẫy. Vua thì cho việc này giống như việc của Hàn Dũ bên Tàu nên đã cho Nguyễn Thuyên đổi thành Hàn Thuyên.

       Tác phẩm của Hàn Thuyền có Phi Sa tập, gồm cả thơ Nôm lẫn Hán. Đây là tập thơ đầu tiên của Nước ta viết bằng Quốc âm. Có giả thuyết đáng tin cậy cho rằng ông là người khởi xướng việc vận dụng các thể thơ dân tộc kết hợp với Đường luật để tạo thành thể thơ mới của nước ta. Niêm luật của thể thơ này hoàn chỉnh dần và để ghi công đầu, tương truyền nguòi ta gọi đó là Hàn luật.

       Tuy còn tồn nghi, cũng ghi lại đây bài Văn Tế Cá Sấu Nôm của Hàn Thuyên còn luu truyền đến ngày nay:

VĂN TẾ CÁ SẤU

       Ngạc ngư kia hơi! Mày có hay !

Biển đông rộng rãi là nơi mầy

Phú Lương đây thuộc về Thánh vực

Lạc lối đâu mà lại đến đây ?

Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa

Dân quen chài lưới chẳng tay vừa

Đời Hùng vẽ mình vua từng dậy

Xuống nước giao long cũng phải chừa

 

Thánh thần nối dõi bản Triều nay

Dấy từ Hải ấp ngôi trời thay

Võ công lừng lẫy bốn phương tĩnh

Biển lặng sông trong mới có rày

Hùm thiêng ra dấu dân cày cấy

Nhân vật đều yên đâu ở đấy

Ta vâng Đế mạng bảo cho mầy

Hãy về biển Đông mà vùng vẫy.

       Đồng huyện cùng Hàn Thuyên, thời nhà Trần còn có nhà thơ Huyền Quang quê Kinh Bắc. Trong lịch sử văn học nước nhà có lẽ vụ án văn học  “vụ án tình ái” đầu tiên dính vào Trạng nguyên tu sĩ do duyên thơ mang đến, đó là vụ án Huyền Quang – Điểm Bích. Số là, vào đời vua Trần Nhân Tông đạo Phật nước ta tiêu biểu là phái Trúc Lâm. Phái này có 3 vị tổ là Điều Ngự (Trần Nhân Tông), Pháp Loa (Đồng Kiên Cường) và Huyền Quang (Lý Đạo Tái).

       Lý Đạo Tái (1254-1334) là nguòi làng Van Ty ( Gia Lương Bắc Ninh), năm 20 tuổi đỗ Trạng nguyên. Đuọc cử vào Viện Nội Hàn, tùng tiếp sú Tàu, thơ văn nổi tiếng. Không bao lâu từ chức đi tu, được Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho sư Pháp Loa giúp đỡ, đến năm 1330 sau khi Pháp Loa mất, được nổi tiếng làm vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm. Ông đã để lại khá nhiều thơ hay:

       NHÀ TRONG NÚI

       Gió thu ban tối thổi hiên tây

Nhà núi đìu hiu tụa đám cây

Tấc dạ tu hành tù nhũng thủa

Dế kêu rầu rĩ hỏi ai đây?

 

ĐI THUYỀN

       Cưỡi thuyền lướt gió sóng mênh mông

Non nước trời thu một sắc hồng

Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến sậy

Tiếng rơi đáy nước móc đầy thuyền.

       Tương truyền năm Huyền Quang 60 tuổi, một hôm nhà vua Trần Anh Tông bảo thị thần và tăng đạo rằng:

“Người ta sống ở trong trời đất, nung khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế… Tại sao Huyền Quang, từ trước tới nay, chỉ sắc sắc không không như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng mờ bụi. Đó là ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục vậy?”

       Có một vị quan văn đứng bên tâu vua rằng:

“Vẽ hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương. Biết người thì biết mặt mà không biết được lòng. Xin hãy cứ thử xem thì sẽ biết là thế nào?”.

       Nhà vua nhìn xem ai thì đó là học sĩ, lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Anh Tông cho là nói phải, bèn im ắng, không động then mây, không lộ góc cạnh… và một mẻ lưới được “giăng bẫy để bắt chim”, người đi thực thi Mỹ Nhân Kế là nàng Điểm Bích, một cung nhân có cái vẻ nõn nà của Phi Yến, có cái thói khoe tài của Điêu Thuyền.

       Nhờ có “cuộc tình” huyền thoại Huyền Quang – Điểm Bích mà có bài thơ, đượcc nàng Điểm Bích “khai” với Vua Trần Anh Tông là của Huyền Quang ngâm lời “kệ”:

       Vằng vặc trăng mai ánh nước

Hiu hiu gió trúc khua sênh

Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ

Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình

       Nỗi “oan” của Huyền Quang thế nào đã đuọc ghi chép trong sách Tam Tổ thực lục, ở đây chỉ bàn về thơ Huyền Quang. Đây là bài : “giai nhân tức sự” rất nổi tiếng, được coi là bài thơ sớm nhất miêu tả đôi nét ngoại hình một người đẹp Việt nam, đó là bài thơ của Sư mà không có khẩu khí nhà chùa mà lại cũng rất Thiền. Với Huyền Quang, không có con người Thiền như lẽ sống, một sự tự hiện thực với tất cả say mê mà chỉ có con người Thiền như một sự băn khoăn tìm tòi, nhận thức để giải thoát bởi cái sầu nghìn thu của kiếp người. Thơ Huyền Quang thuộc loại thơ tình ý cao siêu, lời bay bướm phóng khoáng, phải chăng vì vậy mà bị “bẫy” và “vướng” vào “vụ án văn học” lấy thơ làm “chứng cứ” mà xét “tội” chăng?

 

       Bài Thứ 5

 

Đến đời Lê, thơ của thi sỹ Kinh Bắc – Bắc Ninh đã mang nặng chất “học giả”. Những thi sỹ là Trạng nguyên, Tiến sỹ, Cử nhân, các vị quan lớn xuất hiện nhiều trên thi đàn. Trong Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh tông với 28 vị (nhị thập bát tú) thì 2 trong 3 vị phó nguyên suý là người Kinh Bắc. Thơ cung đình, thù tạc kể cả Hán lẫn Nôm phát triển ở mức độ cao.

       Vì đây là  “Thi Thoại” (nhàn đàm bàn chuyện làm thơ của dân Kinh Bắc – Bắc Ninh , chỉ bàn trong lúc trà dư tửu hậu) chứ không phải “thi tuyển” (tuyển chọn thơ) nên những câu thơ, bài thơ “dẫn” ở đây chỉ là để “bàn” chuyện làm thơ mà thôi. Tuy vậy thời Lê là thời đỉnh cao của làng thơ Kinh Bắc, nên cũng xin sơ bộ thống kê một số thi tập như sau:

       – Thái học sinh Vũ Mộng Nguyên (người Tiên Du) đỗ cùng Nguyễn Trãi, phò Lê Thái Tổ, làm đến Tế tửu, Quốc tử giám, đã để lại mấy chục bài thơ cách luật, phong cách trang trọng mực thước.

       – Trần Khản (quê Từ Sơn) làm tới Chính sự viên tham nghị có tập thơ Phục Hiên, có bài thơ sau:

       Công danh đạo đẳng mạc hồi đầu

       Phú quý phù vân để dụng cầu

       Bất đố bất tham tuỳ vận ngộ

       Tứ hưu chi ngoại cánh hưu hưu

  Tạm dịch:

       Công danh chõ vỡ ngoảnh mặt đi

       Phú quý phù vân chuốc làm gì !

       Tuỳ phận chẳng tham, không ghen tỵ

       Biết thân tự chế… thiết chi chi

                                  (Lý Thanh dịch)

       – Thái Thuận (tiến sỹ 1475) đã đạt tình thì kín mà ý thì sang:

       BẾN HOÀNG GIANG TỨC CẢNH

Nhà cỏ tuôn làn khói

Thuyền nán ghé mái bồng

Trẻ con ba tốn tốp

Bắt cáy dọc bên sông

       Thái Thuận còn có bài:

       SÔNG MUỘN GIANG

       Bãi phẳng triều lên ngập

       Nhà nông sớm vội cầy

       Vắt trâu nghe mấy tiếng

       Cò trắng giật mình bay

       – Nguyễn Thiên Tích (Nội Duệ – Từ Sơn Bắc Ninh) đậu tiến sỹ năm 1431 đời vua Lê Thái Tổ, người cương trực, làm đến Binh Bộ Thượng thư, kiêm Tế tửu Quốc tử giám.

       Ông có Tiên sơn tập 4 quyển. Thơ ông theo đúng âm luật Đường, bài thơ ông viết trong khi đi sứ bên Tàu, nhưng hồn thì ở quê:

       LÀM TRONG THUYỀN

       Đêm lặng trăng như vẽ

       Trời rét tuyết thành ho

       Thuyền côi nghìn dặm khách

       Chiêm bao: đang ở nhà .

       – Tiến sỹ Đàm Văn Lễ 18 tuổi (sinh 1432) người làng Lãm Sơn (Quế Võ) làm quan tới Thượng Thư trải qua các đời vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông nổi tiếng trung trực, sau lại bị vua Uy Mục căm giận đầy vào Quảng Nam và bị giết chết ở Nghệ An.

       Thơ thiên nhiên của ông lấy cảm xúc chân thành làm nền cho thi hứng:

       ĐÊM BA MƯƠI TẾT, NGẪU CẢM NÊN THƠ

       Năm mới hầu sang cũ chán rồi

       Thói đời lật lọng, nghĩ thương ôi !

       Chuyện thường năm tháng còn yêu ghét

Phụ bạc nhân tình chớ trách ai

       – Tiến sỹ Nguyễn Xung Y (Nguyễn Nhân Phùng) người làng Kim Đôi (Quế Võ), thành viên của Tao đàn nhị thập bát tú do Lê Thánh Tông chủ xướng. Ông đã sáng tác “Tiêu Tương bát cảnh” bằng quốc ngữ đượm hồn thơ Việt:

       MƯA ĐÊM TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG

       Ngàn Tương thuở rụng hạt mưa

       Lã chã thâu đêm gió đưa

Rọt tiếng vàng, cao lại thấp

       Rung cành ngọc, nhặt thì thưa

       Đành anh tai khách nằm chăng nhắp

       Lai láng lòng thơ hứng có thừa

       Sớm dậy xem rồng mọc chấu (sừng)

       Nghìn hàng đổng (nhiều) lạ hơn xưa.

       – Hoàng Đức Lương, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) quê ở làng Cửu Cao (Văn Giang) sau tới ở thôn Ngọ Kiều (Gia Lâm) rất nổi tiếng với Bộ “Trích Diễm Thi tập” tuyển thơ từ thời Trần đến đầu đời Lê với 15 quyển. Những lời bàn luận về thơ của Hoàng Đức Lương đã góp phần qúy báu vào gia tài lý luận văn học cổ nước ta vốn không phong phú lắm. Ông viết “Cổ nhân đối với thơ, có người ví với chả cá, có người ví với gấm thêu. Chả cá là vị ngon nhất đời, gấm thêu là sắc đẹp nhất đời, ai biết ăn, biết ngắm đều biết qúy trọng, không coi thường bó phí….”.

       Thơ Hoàng Đức Lương giản dị, kiệm lời, kiệm chữ nhưng lại mang nặng những suy tưởng, triết lý sâu xa về cuộc đời, về vũ trụ bao la, về cuộc hành trình bất tận của con người trên nẻo đường nhân gian mà không ai biết được đâu là điểm khởi đầu, đâu là chỗ cư trú cuối cùng của kiếp người?

       ĐẠO THƯỢNG

       Lộ viễn vô tận đầu,

       Cổ kim trường quí khứ

       Kim nhân vị khẳng hưu,

       Cổ nhân tại hà xứ?

 Tạm dịch:

       Đường xa dường bất tận

       Lữ khách mải trước sau

       Người nay nào đã nghỉ

       Người xưa ở nơi đâu?

              (Trên Đường – Lý Thanh dịch)

       THÔN CƯ

       Tàm ám tàng chính miên,

       Thiềm đê yến sơ nhũ

       Lực quyện hạ sừ qui

       Trú vĩnh cưu thanh ngũ (ngọ)

 Tạm dịch:

       Tằm đang cuộn ngủ trong dâu,

       Ém vừa sinh nở ló đầu dưới hiên

       Bừa về vác mỏi vai êm,

       Nghe tu hú họi ngang thềm bóng trưa

                           (Ở Làng – Lý Thanh dịch)

       Với Hoàng Đức Lương: Văn chương lá có nhan sắc, chả thế mà thi tập của ông có chọn lựa (trích) ra từ những bài thơ diễm lệ của một thời.

       Tiến sĩ Thân Nhân Trung (1418-1499) quê làng Nếnh (Việt Yên), là phó đô nguyên súy Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông. Thơ ông được vua khen là “thợ khéo tay vô địch” được ban một bộ áo long bào tuyệt đẹp “cánh cầu vô địch thủ, tài tác cổn long y” .

       VÂNG HỌA THƠ VUA: ĐẠO LÀM VUA

       Nghiền ngẫm uyên thâm kế thánh thần

       Rộng truyền pháp chế – phép trời ban

       Chăm dân – tam đại noi gương trị

       Luyện võ, bốn mùa mở cuộc săn

       Chín khúc sửa – xây điều chính sự

       Tám quyền cử – truất khéo công tâm

       Ngôi hoàng sừng sững ngời muôn thuở

       Thế nước thạch bàn vững ngàn năm.

       Cùng thời có cặp vợ chồng tài sắc nữ sĩ Kim Hoa – Phù học sĩ, thơ rất trữ tình:

       Ý XƯA

       Sen lá như dù biếc

       Sen hoa tựa má đào

       Nhớ ai chưa gặp mặt

       Thơ thẩn mãi bên ao

                     (Hàn lâm học sĩ Phù Thúc Hoành)

       MÙA HẠ

       Gió cây lựu tơi bời

       Trên đu tha thướt dáng người giai nhân

       Oanh vàng ủ rũ thương xuân

       Một đôi tiếc cảnh tần ngần trên cây

       Dừng kim rủ thấp đôi mày

       Nương song hồn mộng xa bay cuối trời

       Cuốn rèm ai cứ gọi hoài

       Để hồn em chẳng được bay tới chàng

                                     (Ngô Chi Lan)

 

Bài Thứ 6.

 

       Trên thi đàn Bắc Ninh vào đầu thế kỷ 18 xuất hiện hai ngọn núi cao sừng sững trên bầu trời thơ đất Việt, đó là Hồng Hà Nữ sỹ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), bà quê ở Giai Phạm huyện Văn Giang Kinh Bắc và Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), ông quê ở Làng Liễu Ngạn huyện Thuận Thành Kinh Bắc.

       Từ kiệt tác của Đặng Trần Côn, Hồng Hà nữ sỹ đã dịch “Chinh phụ ngâm” vô cũng diễm lệ, chứa chan tình cảm, uyển chuyển và đầy nhạc điệu, chỉ cần đọc 2 trong số 408 câu cảu khúc ngâm đã nói lên nỗi lòng người chinh phụ:

       Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

       Theo giai thoại một hôm Hồng Hà nữ sỹ gặp Nguyễn Công Hãng ở giữa đường, Nguyễn có yêu cầu bà làm 2 câu tả cảnh “độc hành ” (đi một mình ), bà liền ứng khẩu đọc luôn:

       Đàm đạo cổ kim tâm phúc hữu

Truy tuỳ tả hũu cổ quăng thần

(Đàm đạo chuyện xưa nay thì có bạn gan ruột.

Theo đuổi mình bên trái bên phải, có bày tôi chân tay).

       Năm 1734 đời vua Lê Thuần Tông, vua Tàu có sai sứ sang tuyên phong, bà dùng văn chương mà áp đảo được đại diện “thiên triều”. Từ đấy bà lừng danh khắp cả nước (theo Lãng Nhân).

Đến “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu đã đưa ngôn ngữ văn học thành thành văn lên đến đỉnh cao. Từ ngữ trong Cung oán ngâm khúc đã tinh xác, nhuần nhị và óng chuốt khác thường. Đây là áng văn chương bác học, sử dụng một thể thơ thuần tuý dân tộc Song Thất Lục Bát.

       Nhạc điệu Cung Oán hết súc réo rắt bởi sự hoà thành của hai vần Trắc ở câu 7 (nghe gay gắt) và sự hoà hoãn của 2 câu 6-8 (nghe dịu êm hơn) dễ ngâm nga. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một toà cung điện vàng son lộng lẫy được tạo bởi tay thợ trời tài danh xứ Kinh Bắc. Cũng chỉ cần lấy 2 câu mà tác giả đã vẽ lên sự kỳ vỹ bất tận của tạo hoá trước con người vĩ đại và đầy tính bi hài:

       Lò cừ nung nấu sự đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

       Một vương tôn công tử, một vị hầu tước trẻ tuổi tài hoa văn võ kiêm toàn. Thiếu gì huỏng cao lương mỹ vị, ở bên ngoài đẹp quận chúa tiểu thư trong điện ngọc, nhà vàng mà lại thốt lên:

       Thà rằng cục mịch nhà quê

Giàu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này

       Thì thật là thú vị, có một giá trị giáo dục sâu sắc với những kẻ giàu sang hãnh tiến bợm đời. Thơ của vị đại quý tộc Bắc Ninh này, đến như câu: “Gót danh lợi bùn pha sắc xám” thì cũng đượm chất thép của một lưỡi gươm triết lý quật vào mặt những ai háo danh cầu lợi để rồi :

       Giấc Nam Kha khéo bất bình

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

       Thơ đến đây không còn là “viết cho mình” nữa mà là viết cho đời, cho dân tộc, gửi lại muôn đời mai sau cho con cháu. Lúc còn tóc để chỏm (chưa đi học) thi thoảng tôi (NK) lại thấy thầy tôi (lúc ấy mới ngoài 20 tuổi) ngâm nga câu:

       Trải vách quế gió vàng hiu hắt

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng

       Tôi nghe thật lạ tai. Thầy tôi lại bảo đó là khúc “Tần cung oán” của cụ Ôn Như Nguyễn Gia Thiều. Mẹ tôi thì thích đọc Thuý Vân Thuý Kiều của Nguyễn Du. Càng lớn lên, tôi (NK) càng ngộ ra rằng: Thế mới biết văn chương trác tuyệt thì đến người dân bình thậm chí cả người không biết chữ cũng thuộc, giá trị truyền cảm to lớn của thơ là thế.

 

 

Bài Thứ 7.

 

Hoàng giáp Trần Danh Án (1754-1794) người làng Bảo Triện (Bắc Ninh) một cựu thần danh tiếng đời Lê Chiêu Thống, ông có tác phẩm Liễu Am thi tập.

       Ông là người khăng khăng giữ quan niệm “cô trung”, mặc dù cũng linh cảm được cái triều đại mà mình tôn thờ đã mất vai trò lịch sử. Đó là chuỗi mâu thuẫn trong tư tưởng được chuyển hoá thành nguồn thi hứng bi thiết:

       Ngày mới sắp tới gần, ngày cũ sắp qua

Ngày mới cười vui, người cũ khóc

                                                   (Trừ tịch)

       Con bướm không biết rằng hoa đã rụng

Lòng ai còn quyến luyến cánh hoa

                                             (Đại Diện)

       Về “thơ con cuốc” (nhớ nước cũ) ông là người mở đầu về sau này Phạm Quý Thích, Bà Huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Tản Đà … cũng theo hồn của Trần Danh Án mà cảm hứng về đề tài này:

Ai xui con cuốc gọi hè

Cái nóng nung người nóng nóng ghê…!

       Thơ Trần Danh Án:

       Giá cô tại Giang Nam

Đỗ Quyên tạo giang Bắc

Giá cô minh gia gia

Đỗ Quyên thanh quốc quốc

Vi cầm thượng hiền quốc gia thanh

Cô thần đối thử tinh nan cực

 Lý Thanh dịch:

       Bờ Nam vang dậy giọng gà rừng

Bờ Bắc kêu hoài tiếng đỗ quyên

Nhà nhà đối tiếng kêu ai đó

Nước nước âm vang một nỗi niềm

Nghĩ loài chim nhỏ còn trung hiếu

Khiến kẻ cô thần ngấn lệ riêng.

       Thời ông vua Lê Chiêu Thống (dân gian gọi vua rước quân xâm lược nhà Thanh “cõng rắn cắn gà nhà”), còn để lại một số tác phẩm về bà Nguyễn Thị Kim (vợ Lê Chiêu Thống).

       Bà Nguyễn Thị Kim người xã Tỳ Bà, tổng Tỳ Bà huyện Lương Tài (Bắc Ninh), là vợ Lê Chiêu Thống. Khi vua Quang Trung kéo quân ra Bắc. Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, bà Nguyễn Thị Kim chạy theo không kịp. Bà phải nương náu ở chùa, giấu tung tích đến năm Gia Long thứ 3 (1804), hài cốt Lê Chiêu Thống được đưa về nước, bà liền đến đón khóc lóc thảm thiết, rồi uống thuốc độc tự tử.

       Sự việc trên đến tai quan Tổng trấn Bắc Thành, ông ta làm biểu tâu lên triều đình xin phong tặng. Vua Gia Long y cho và cho khắc bia đề chữ: “Yên trinh tuẫn nghĩa Nguyên Thị Kim chi môn”, cấp cho 2 người phu mộ và 20 mẫu ruộng, đồng thời sai con cháu nhà Lê trông nom việc thờ tự.

       Tại văn bia Chính nghĩa am, khắc vào năm Tân Hợi, Tự Đức thứ 4 (1851) có bài minh, ca ngợi phẩm hạnh của bà Nguyễn Thị Kim như sau:

 Phiên âm:

       Vĩ tai hiền tần

Nữ trung anh kiệt

Phùng thời bất tường

Nê lộ phong tuyết

Mộng chiếu đình hồ

Du du tuế nguyệt

Nghĩa dĩ tử thù

Thuỷ chung nhất tiết

Thảo hạnh hà kiên

Đoán kim luyện thất

Thạch trụ cương thường

Thiên thu tuyên dương

 Dịch nghĩa

       Lớn thay hiền nữ

Nữ trung anh kiệt

Gặp thời không may

rẻ như bùn tuyết

ôm mộng đi tu

Dặc dài năm tháng

Lấy chết đền ân

Trước sau trọn tiết

Chí sao bền bỉ

Như sắt như vàng

Bia đá cương thường

Nghìn năm tuyên dương

       Tại văn bia trung bia ký khắc năm Quý Mùi, niên hiệu Tự Đức do Tri huyện huyện Lương Tài Nguyễn Tất Đạt cung tiến, đã có bài ca ngợi:

       Không oán Sơn binh bách chiến lao

Hà kiều tiên đoạn cữu an đào

Tân tri cố quốc dự sinh định

Thân tuẫn quy trinh nhất tử hào

Kiệt truyện hãn văn chinh thạch lập

Danh hương độc kiến tiết môn cao

Thiền am thập cửu niên chung sự

Thanh mộng yến triều dĩ kỷ tao

 Tạm dịch nghĩa:

       Không nên oán quân Tây Sơn đánh trăm trận làm cho dân khổ; Cầu sông Nhị hà bị đứt lỗi này trốn vào đâu? Tấm lòng nhớ về cố quốc đã có từ lâu rồi. Thân thà chết đi, để lại ánh sáng của ngôi sao rơi. Câu chuyện liệt nữ ít được nghe, chỉ còn lại tấm bia đá trinh tiết đứng đây; Thanh danh ở làng chỉ đến miếu nêu cao đó thôi; Mười chín năm tu Phật, việc đời thế là xong; Giấc mộng sang nhà Thanh gặp vua mấy lần mà không thành (Nguyễn Quang sưu tầm).

       Lý Thanh dịch thơ:

       Chớ trách Tây Sơn bách chiến lao

Cầu sông Hồng đứt… lỗi ai nào?

Tấm lòng cố quốc khư khư giữ

Tuẫn tiết hồn vương một ánh sao

Chữ ghi liệt nữ còn bia đá

Tiếng ở làng truyền chốn miếu cao

Cửa thiền ẩn náu mười chín độ

Nhập Thanh bái đế… mộng thấy tao!

       Cùng cảnh ngộ như Nguyễn Thị Kim có bài thơ tỏ ý chí “trung thần nhà Lê” không theo Sơn Tây, không làm quan với Gia Long (tuy có nhận chiếc khăn do Gia Long ban cho).

       Xin tạm dịch:

       Kiến ong còn biết nghĩa quân thần

Há lẽ làm người chẳng nhớ ân

Huống đã tập rèn khuôn lễ giáo

Lại từng rạng rỡ vẻ đai cân

Bắc song xử sĩ khôn quên Tấn

Đông Hải tiên sinh khó nhận Tần

Bên mộ người sau còn nhắc nhở

“Lê triều tiến sĩ nguyên họ Trần”.

       Có người bạn tấm tắc khen hay rồi ngần ngại mãi mới dám chê câu cuối bị thất niêm ở chữ “tính” (họ) thanh trắc, đáng lẽ chữ ấy ở thanh bằng mới phải. Tiến sĩ Trần khiêm tốn, nhờ bạn sửa giùm:

       Câu cũ là:

       Cố Lê triều tiến sĩ tính Trần

       Sửa mới là:

       Lê Triều tiến sĩ, Nguyễn Triều cân

(Lê triều tiến sĩ, Nguyễn triều khăn).

       Trần tiến sĩ vụt tỉnh ngộ liền vứt cái khăn của vua Gia Long (dân gian cho rằng ông vua này “Rước voi về rầy mả tổ”) xuống đất rồi bái tạ lỗi:

– Chết thật, không có huynh ông chỉ bảo thì trăm năm danh tiết còn gì.

 

       Bài Thứ 8:  TỪ CAO BÁ QUÁT… ĐẾN NGUYỄN QUYỀN

 

       Nhà thơ Cao Bá Quát (1808-1855) quê Bắc Ninh, cùng với Nguyễn Văn Siêu, đương thời đư­ợc coi là “Thần Siêu, Thánh Quát” hoặc “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”. Thi xã Mặc Vân của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương được các bậc công khanh và quan chức danh tiếng hưởng ứng như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Siêu… Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là bạn của Cao Bá Quát, nhưng là con trai thứ tư của vua Minh Mạng (bậc chú của vua Tự Đức) là một trong “Trường An tứ kiệt”. “Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường”, nể Miên Thẩm, nên Cao Bá Quát cũng là hội viên của Thi Xã này, thế mà Cao Bá Quát “vuốt mũi không nể mặt”. Một hôm ở Viện Hàn Lâm, được xem những bài thơ xướng hoạ của Thi xã Mặc Vân, Cao Bá Quất lắc đầu, bịt mũi, ngấn ngẩm đặt một câu lục bát:

       Ngán thay cái mũi vô duyên

Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An

       Con thuyền buôn mắm xứ Nghệ và những bài thơ Thi xã đều nặng mùi như nhau.

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen, lại dám coi trời bằng vung chả thế mà (theo giai thoại) có dịp Cao Bá Quát (Cao Chu Thần) dám bịa thơ “lỡm” cả đấng minh quân (vua Tự Đức):

       Huếch hoác ngựa về theo gió đưa

Hênh hoang người cũng tự về qua

Oanh vườn học nói khề khà giọng

Đào nội đua cười lấm tấm hoa

Lộp bộp chẳng nghe xuân móc nặng

Bài nhài chỉ thấy hạt mưa thu

Khù khờ câu cú ai không biết

Khệnh khạng còn đem hỏi khách thơ

       Những “huyênh hoang, huếch hoác, bài nhài” đã có ý tinh nghịch “xỏ” ngầm vua, đến hai (2) câu cuối là chửi vỗ mặt “khù khờ, khệnh khạng”… Do đó Cao Bá Quát (Cao Chu Thần) bị vua Tự Đức đày ải, giết là không tránh khỏi.

       Từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp kéo dài là môt sự kiện trọng đại chi phối toàn bộ sinh hoạt và tư tưởng dân tộc ta . “Xã tắc lâm nguy, sỹ phu hữu trách.”

Các thi sỹ Bắc Ninh thời này đã khởi sắc với ý thức công dân rõ rệt, tiếp sau Cao Bá Quát là Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Phan Văn Ái, Nguyễn Quyền… đã để lại những áng thơ văn yêu nước rất có giá trị.

       Nguyễn Quyền (1869-1941), đỗ tú tài, làm Huấn đạo Lạng Sơn. Ông là sáng lập viên kiêm Phó Ban Giám hiệu trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Ông bị Pháp đầy ra Côn Đảo, sau chúng đưa về an trí tại Bến Tre và mất ở Sa Đéc.

       Nguyễn Quyền để lại những câu thơ bất diệt ví dụ trong bài Kêu hồn nước:

       Hồn xa dòng dõi Lạc Long

Con nhà Nam Việt ngư­ời trong giống vàng

Hoặc trong bài Phen này cắt tóc đi tu có câu:

Phen này cắt tóc đi tu

Tụng kinh Độc Lập, ở chùa Duy Tân…

Ai tu xin dốc một lòng

Nghìn thu quyết tạc chữ đồng đến xương.

 

       Bài Thứ 9:  TỪ … HOÀNG CẦM ĐẾN … HOÀNG HƯNG

 

Thời kỳ từ 1930-1945 Bắc Ninh còn có thi sỹ Trần Minh Tước (Minh Tước, Xích Điểu) sinh năm 1913 ở Dục Tú - Từ Sơn -Bắc Ninh. Ông hoạt động thời kỳ Mặt trận Dân chủ; từng bị bắt và bị giam qua các nhà tù khám lớn Sài Gòn, Hoả Lò, Sơn La. Từ năm 1931 ông đã có thơ đăng báo, nổi tiếng là thơ trào phúng.

Trong dân gian vẫn còn nhiều người nhớ bài thơ Tết trong nhà tù Sơn La:

       Tết nào bì kịp tết Sơn La?

Cảnh ngục mà xuân vẫn nở hoa

Ba bản kịch tình, chim Tước hót

Một màn vua bếp, kép Long ca

Chè lam Kinh Bắc, ngô thay lạc

Cỗ nấu thành Nam, sắn giả gà

Quốc tế ca vang hùng khí dậy,

Hẹn ngày phá hết xích xiềng ra

                                        (Tết 1940)

       Thơ trữ tình cách mạng cuả Minh Tước lạc quan, chân thực tuy chưa đạt tới mức như Tố Hữu; Nhưng ở Xích Điểu thì thơ ông lại là “cây súng số 1” trên báo Cứu Quốc, Nhân Dân một thời nã đạn trào phúng khá trúng đích đối phương, rất được tán thưởng.

       Ngoài Minh Tước ra, Kinh Bắc còn có nhà thơ trào phùng châm biếm Lê Kim tiếng tăm với nhiều bài thơ đặc sắc trong thời chống Pháp và chống Mỹ.

       Thế hệ kế tiếp có nhà thơ Hoàng Cầm.Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Bắc Ninh đạt tới độ Hàn Lâm. Từ thực tại đã thăng hoa tới những miền hư viễn của tâm linh. Rất nhiều đam si, rất nhiều trầm ẩn nên không hiếm khoảng khắc hồn thơ của thi sỹ nhập vào vô thức. Có thể ta không hiểu ngay được thơ ông! Song lại dễ cảm. Đó chính là giao điểm của thơ và người cảm thụ. Cái phi lý trong thơ (và nhiều khi cả trong đời thường) lại trở thành hợp lý của sự tồn tại, thích ứng cũng nên.

       Bài thơ bên kia sông Đuống (1948) đã làm cho Hoàng Cầm thêm nổi tiếng và sông Đuống thành biểu tượng của quê hương chảy mãi mãi trong hồn thơ đất Việt, sánh ngang tầm với Hoàng Hà (Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian), Dương Tử (sông Dương Tử liễu đua tươi) trong thơ Đường bên Trung Quốc. Thơ Hoàng Cầm với một bút pháp độc đáo, một phong cách riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng. Thường bất chấp văn phạm. Ông là người kế tục thơ mới và đi xa hơn về phía hiện đại – một lối thơ siêu thực hôm nay.

Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải thoát.

       Kinh Bắc còn có nhà thơ Lê Đạt (sinh 1929) quê mẹ ở Đình Bảng, quê cha ở Ái Lữ. Vì số phận không bình thường, nên mạch thơ của Lê Đạt cũng không bình thường. Thời năm 1956-1957 cùng với Trần Dần, nhà thơ Lê Đạt cho ra một loạt thơ bậc thang, bắt chước Mai a (Liên Xô) rất to tiếng, gân cốt, ồn ào… định đi tiên phong “đổi mới thi ca” làm thơ chính trị, kiểu như hô khẩu hiệu, ví dụ như 2 câu kết của bài Cha tôi là bài “được” nhất của Lê Đạt thời ấy:

       Cha đã dạy con một bài học lớn

Đau thương

Kiên quyết làm người

       Cuối đời Hoàng Cầm làm chủ mảng Tình Yêu, còn Lê Đạt đi làm “Phu chữ”, cả hai đều đạt được những thành tựu lẫy lừng, để lại dấu ấn trên thi đàn, có tiếng vang ra cả nước ngoài.

       Thơ Lê Đạt không phải viết cho đại chúng, là người đi tiên phong trong việc thể nghiệm cách tân thơ ở nước ta. Sự tìm tòi đổi mới có cái được, có cái chưa được. Nói như nhà thơ Hoàng Cầm: “vì anh mải vật vã quá kỳ thu nặng nhọc với các con chữ nên Nàng thơ đến rồi bèn bỏ đi. Rất nhiều chữ lấp lánh đấy nhưng chưa phải là ngọc. Kết quả những bài đó làm tôi cũng mệt theo anh lắm khi hoa cả mắt, nhức cả đầu”.

       Thời gian sẽ là người thày phán xét công bằng nhất, cái tinh hoa sẽ còn mãi với đời. Có nhiều phong cách thể hiện thơ - những vẫn phải lấy cái Hồn mà tồn tại, đó là những ý tưởng lạ gắn với đời sống sinh động của chúng ta.

       Tiếp bước Lê Đạt trong công cuộc Cách Tân Thơ có nhà thơ Hoàng Hưng sinh năm 1942 (người làng Phù Lưu - Bắc Ninh), cả hai đều tài hoa lãng tử “Dám”, đi tìm Bóng Chữ (Lê Đạt), và tìm Cái Mặt (Hoàng Hưng) Mặt gì? Không biết (Nói như kiểu nhà thơ Thanh Thảo).

Hoàng Hưng có một bài thơ đang được truyền tụng rộng rãi:

       Người Về

Người về từ cõi ấy

Vợ khó một đêm con lạ một ngày

Người về từ cõi ấy

Bước vào cửa người quen tái mặt

Người về từ cõi ấy

Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui

Hai năm còn mộng toát mồ hôi

Ba năm còn nhớ một con thạch thùng

Mười năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối

Một hôm có kẻ nhìn trân trối

Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi. (*)

       Hãi quá! Cứ như là lặp lại Gia Ve (trong Những người khốn khổ của Vích Tô Huy Gô – Les Misirésables – Victor Hugo).

       Thi sỹ là người đi tìm cái Đẹp của cuộc sống, của tình cảm. Vì thế, dù tân kỳ gì đi nữa thì thơ của anh cũng phải đu nhập được vào tâm tư và tình cảm của đồng bào quê hương anh.

Chúng ta rất mong có một thời đại thơ mới (thơ hiện đại) ra đời.

 

Bài Thứ 10:

 

Tiếp theo các chí sỹ - thi nhân tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục, đầu thế kỷ 20 Bắc Ninh còn có nhiều thi nhân nổi tiếng.

Độc giả biết Ngô Tất Tố (1892-1954) qua Tiểu thuyết Lều chõng, Tắt đèn và phóng sự Việc làng, ký sự lịch sử Vua Hàm nghi với việc kinh thành thất thủ; với kiến thức uyên bác, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực :

– Khảo cứu có “Phê bình Nho học của Trần Trọng Kim”, khảo cứu về Lão tử, Mặc tử, Văn học Lý, Văn học Trần, Hồ, Mạc, Tây Sơn...

– Dịch thuật có Đường thi, Hoàng Lê nhất thống chí, Kinh dịch;

– Về thi ca, ông có bài thơ rất nổi tiếng viết khoảng năm 1929 (Trên báo Thần Chung Sài Gòn):

       NGHE GÀ GÁY CẢM HOÀI

Tiếng gà xao xác giục bên đường

Trên gối xui người dạ ngổn ngang

Ngày tháng mài mòi đôi má trắng

Nước non đeo nặng tấm gan vàng

Tánh chim mỏi cánh bay về tổ

Kiếp ngựa tù chân lại nhớ đàng

Thôi cái cuộc đời còn thế thế

Làm trai chi giữa gốc tre làng

       Thơ của một vị túc nho, nhưng không hủ nho. Bình cũ rượu mới. Một nửa là rượu nhà quê làng Cói, còn một nửa là rượu Hà Thành.

       Đến Phong trào thơ mới (1930-1945), đất Bắc Ninh lại xuất hiện hai nhà thơ lừng tiếng Thế Lữ và Đoàn Phú Tứ.

       Thế Lữ (1907-1989) quê Phù Đồng (nơi có đền thờ Phù Đồng Thiên Vương – Tháng Gióng).

Theo Hoài Thanh thì: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”. Đó là “cái công Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”. Mặc dù bước sau Phan Khôi, nhưng Thế Lữ là nhà thơ đi đầu xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Thế Lữ là “ông Hoàng” của thời đại thơ ca mới.

Cho đến hôm nay, thì quê hương Bắc Ninh thân yêu vẫn hiện lên trong tâm trí ta một cái gì rất Việt Nam (xứ Giao Chỉ ngày xưa và Bắc Ninh đương đại) để ta yêu dấu đến nao lòng xứ sở miền quê quan họ này:

       Sáng hôm nay sương biếc toả mờ mờ

Như hương khói đượm đầu cau, mái rạ

       Với Thế Lữ thể thơ 8 chữ đã trở thành thể tiêu biểu của thơ mới. Đó là thể thơ ưu việt bởi tính chất gẫy gọn sinh động và đầy hình tượng hiện đại, đánh dấu một bướcphát triển nhảy vọt của tư duy thơ Việt nam:

       Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…

       Thế Lữ chủ trương dùng thơ ca để phụng sự cái đẹp của thế giới, của con người và tình yêu, phải chăng đó cũng là cái đẹp khuynh thành của Bà Chúa Chè, hoà nhịp với văn mạch dân tộc ở chặng đường tuyệt vời hứng khởi?

       Bắc Ninh còn có Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ (1910-1989). Ông có thi phẩm bất hủ Màu Thời Gian, đồn rằng để tặng một giai nhân là con gái nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh (Nàng là em nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ?).

Bài thơ chỉ có 18 câu với 101 chữ của một tình yêu đơn phương, viết như thể không đâu vào đâu mà đủ cả nhạc, hoạ, thơ:

       Sớm nay tiếng chim thanh

Trong gió xanh

Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình.

       Từ ngàn năm nồng ấm, ta (như Hoàng Đế) lặng dâng Nàng (phi tần của ta) cả “Trời mây phảng phất nhuốm thời gian”. Lãng mạn và phi thường quá, trên cả tầm hoàng tử yêu công chúa. Bởi thế thời gian mới có Màu và có Hương. Và cho dù như Hạng Vũ - Ngu Cơ, Đường Minh Hoàng - Dương Quý Phi, Trịnh Sâm - Đặng Thị Huệ, Quang Trung - Ngọc Hân… thì tình một thủa còn hương, bởi vì “hương thời gian thanh thanh, màu thời gian tím ngát” kia mà.

 

       Bài Thứ 11: NHỮNG NHÀ THƠ BẮC NINH XA QUÊ

 

       Người Bắc Ninh vì nhiều lý do phải sống xa quê. Điển hình nhất là hậu duệ nhà Lý lánh nạn nhà Trần sang ở Hàn Quốc đã gần 1000 năm, nay mừng mừng tủi tủi đã trở về quê, nhất là vào dịp 15 tháng Ba Âm Lịch đúng ngày Lê hội đền Đô (Nơi thờ 8 vị vua nhà Lý).

       Trong số những người sống xa quê có rất nhiều người là thi sỹ. Nguyễn Khôi đã có câu thơ nói hộ bao nỗi niềm của họ:

Dù tản mát chân trời góc bể

Còn tấc lòng vẫn gửi gấm nơi quê

       Cử nhân Luật Nguyễn Thanh Giang (sinh 1972 ở Từ Sơn), nghiên cứư sinh ở Viện Hàn Lâm Ba Lan, ngoài công việc, anh cũng làm thơ và dịch thơ. Anh có nhiếu tứ thơ hay về thân phận xa xứ của lưu học sinh là người lao động ở đất khách quê người.

       VÔ ĐỀ

       Qua đường thấy là vàng rơi

Huơ tay chợt thấy tình vơi ít nhiều.

Kẻ kiếm tiền

Vo viên ước mơ hưởng lạc

Đem giấm thật chua nơi hũ sâu tâm trí

Có đêm toát mồ hôi lưng trằn trọc

Xé ra nhấp nháp, ít một, ít một thôi, sợ hết

Không dám chết, sợ mất dịp kiếm tiền thêm nữa, thêm nữa

Hưởng thụ bằng miệng môi, tử chi, dè sẻn thôi, tuỳ dịp thôi

Thói quen ăn vào não, ngấm vào gen, truyền đời sau

Kẻ học

Nghiện sách, mơ màng đánh vật với đời, vì tiền, vì sỹ diện;

Có khi đánh mất ước mơ, vì sống đã như mộng du

Suốt đời đi tìm ‘cái ấy’, sắp tóm được lại tuột tay, lại đắng cay

Kẻ chơi

Quẫn trong cuộc tìm thú chơi, thoả bao giờ hết thèm muốn dục tình

Rượu tràn trề, vòng bạc nhập nhoè

Cơn khát có khi dừng, nhưng không khi nào dứt

Rơi hun hút vào tình êm ái, ướt át, khoái lạc tràn phun trơ lại mệt mỏi, đờ đẫn

Những khuôn hình không Montage dính thành chuỗi sống, không đầu không đuôi, không kịch bản, tiếng người láo nháo thay nhạc êm.

              (Nguyễn Thanh Giang: Đam mê trích Trường ca Đời 1995).

       Nhà thơ Võ Sa Hà (quê Tam Sơn Bắc Ninh) khi xa quê xuất thần vào giờ phút thiêng liêng nhất trong năm:

       Quê hương ở tận cuối trời

Mẹ cha thì đã về nơi suối vàng

Tết về xót nỗi tha hương

Hồn nâng chén rượu tìm đường về quê.

Thật là cảm động rất thi sỹ !

       Nguyễn Hồi Thủ (sinh 1949 quê Bắc Ninh) đang sống ở Tây Âu có nhiều bài thơ trông về quê hương xứ sở*

       Chợt nhớ

Em ở sát nhà tôi

Cách nhau bờ dậu thấp

Tụi mình học cùng lớp

Mẹ em bán cau bán thuốc

Chợ Dầm xa vời vời

Đường đi cát trắng trùng điệp nắng

Mà khi về chợ vẫn hay cười

Hương ơi

Bên giếng nhà em có bụi chuối bồ hương

Quanh năm bòng mát sang vườn nhà tôi

Nhà tôi nhài lý thơm về tối

Tôi bỏ ra đi mười mấy tuổi

Mà sao còn nhớ tóc em dài.

(Xem thêm Nguyễn Hồi Thủ: Gió và bụi, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt nam Hà Nội 1-1995).

 

       Bài Thứ 12:  DỊCH THƠ TỪ NGÔ TẤT TỐ ĐẾN THÚY TOÀN

 

Làm thơ hay đã khó, nhưng dịch thơ đạt và “hay” lại càng khó hơn. Ai đã thò bút dịch thơ đều thấu hiểu: dịch là phản (nếu không đạt), dịch là thắng (nếu đạt). Đoàn thị Điểm dịch “Chinh phụ ngâm” Phan Huy Vịnh dịch “Tỳ bà hành” là đạt ở vế thứ hai này.

Dịch thơ Đường “siêu” như Tản Đà mà cũng có bài làm sai cả ý nguyên tác. Ví dụ khi dịch bài Độ Tang Càn (Qua sông Tang Càn) của Giả Đảo, câu “Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương” đáng lẽ phải dịch là “Mười thu làm khách Tinh Châu” thì Tản Đà dịch là “Tinh Châu đất khách trải mười hè”. “Sương” ở đây phải là “thu” mới hợp với khách tha phương kia.

       Nhà văn Ngô Tất Tố (1) quê ở làng Cói – Từ Sơn- Bắc Ninh dịch bài “Tự quân chi xuất hĩ” (Từ thủa chàng đi) đạt mức điêu xảo, đã phủ thêm hồn và vóc dáng người chinh phụ vào 2 câu của Trương Cửu Linh:

       Tư quân như nguyệt mãn

Dạ dạ giảm thanh huy

Dịch là:

Nhớ chàng như mảnh trăng đầy

Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm

       Thế hệ sau Ngô Tất Tố còn có một dịch giả thơ khá quen thuộc với các độc giả một thời yêu chuộng thơ Nga. Người đó ở làng Phù Lưu – chợ Dầu – Từ Sơn Bắc Ninh. Chàng trai họ Hoàng “Thế gia vọng tộc”, đã từng du học ở Nga, dịch giả Thuý Toàn sinh năm 1938. Qua hơn 40 năm dịch tiếng Nga từ Puskin, Lermontov tới Bunin, Blok, Exenhin, Gamzatov… Những câu thơ do anh dịch như “Tôi yêu em đến nay chừng có thể” hay “Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu ấy”… đã nằm trong sổ tay của rất nhiều người yêu thơ.

Được hỏi về bài thơ Nga đầu tiên anh dịch ? Thuý Toàn tâm sự: Đó là bài “Buổi sáng mùa đông” của Puskin. Lúc đó tôi đang mày mò dịch nhưng không đạt. Mãi 30 năm sau, năm 1978, khi tóc đã bạc nhiều, tôi lại quay lại với bài thơ đó:

       Dưới trong xanh thăm thẳm của vòm trời

Rừng quanh quạnh riêng mình in vệt thắm

Từng xanh lá hiện qua làn nhũ mỏng

Sóng nhỏ trôi lấp lánh dưới làn băng (2)

Ở Bắc Ninh còn có dịch giả Nguyễn Khôi. Nhờ hơn 20 năm sống ở Sơn La, nên am tường văn hoá Thái, Nguyễn Khôi là người đầu tiên chuyển thể Sông chụ son sao (Tiễn dặn người yêu) từ tiếng Thái sang thơ Việt (song thất lục bát) 1005 câu. Đã được tái bản nhiều lần. Trong đó chỉ 2 câu tiễn dặn thôi mà tình người con trai con gái Sơn La nó sâu sắc vô cùng:

Lời thương em nhớ đừng phai

Hồn thương đừng có đổi thay cõi trời

Hoặc là:

Trái tim xưa vẫn còn treo

Anh ở đâu? Vía còn đeo trong hồn

 Và:

       Người đi xa quẩn quanh vía bám

Dây trầu leo lên quấn hồn yêu

Trong lĩnh vực dịch thơ ở Việt Nam, Bắc Ninh đã có nhiều đại diện khá tiêu biểu!

Chú thích:

       (1) Mời xem thêm Ngô Tất Tố “Thi -Văn – Bình – chú – Lê – Mạc – Tây Sơn” (từ giữa thế kỷ 15 đến thế kỷ 19) Mai Lĩnh Xuất Bản: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Vũ Huy Lượng, Phan Huy Ích, Ngọc Hân Công Chúa, Dương Xuân hầu, Tả Đình Hầu, Phạm Đan Phương, Di thần Nhà Lê…

(2) Mời đọc thêm Thơ Puskin, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin Hà Nội 2001 (Người dịch Hoàng Trung Thông, Thuý Toàn, Xuân Diệu) Hội Nhà văn Nga tặng Bằng danh dự cho dịch giả Thúy Toàn.

 

       PHẦN II:  NGOẠI BIÊN

       Tặng Người em đồng hương – Tiến sỹ Nguyễn Văn Hoa

 

       Bài 1:  VĂN NHƯ SIÊU QUÁT...?

 

       Vào giữa thế kỷ 19, tại đất Thần Kinh (Huế) xuất hiện “Trường An tứ kiệt” với hai câu nhận xét cho là của Vua Tự Đức:

       Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường

 Tạm dịch:

       Văn như Siêu và Quát, thì đến văn đời tiền Hán cũng không có giá trị gì; Thơ đến Tùng Thiện công và Tuy Lý công thì như bỏ qua cả thời Thịnh Đường.

       Sở dĩ, cho là của Tự Đức là hai câu trên nói theo khẩu khí Đế Vương, gọi xách mé tên tục Phó bảng Nguyễn Văn Siêu là “Siêu”; cử nhân Cao Bá Quát là “Quát” thì chỉ có Đức Kim Thượng (Vua đương thời) mới dám gọi “thần Siêu, thánh Quát” như thế; còn bình thường tôn trọng đều gọi “Nguyễn Phương Đình” và “Cao Chu Thần”. Tùng ở đây là Tùng Thiện công (Nguyễn Phúc Miên Thẩm) và Tuy là Tuy Lý công (Nguyễn Phúc Miên Trinh) - sau hai vị này được truy tặng là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương (1936) đều là con Vua Minh Mạng, ở vào hàng chú của Vua Tự Đức.

Vừa qua, nhân chuyến di khảo miền Trung của Hội VNDG Hà Nội. Đoàn có đến viếng Phủ Tùng Thiện Vương và phủ Tuy Lý Vương ở Huế. Tại đây, rõ ràng hai câu trên đều không ghi tác giả, con cháu trong Phủ của hai Vương đều nói: Đó là của người đời! (dân gian truyền tụng). Đối với các danh sĩ đương thời thì “Trường An tứ kiệt” là những nhà văn, nhà thơ bậc thầy, chữ nghĩa nhiều như Vua Tự Đức mà còn “nhờ” Miên Thẩm duyệt thơ hộ nữa là… “Trường An tứ kiệt” không những nổi tiếng trong nước, các vị còn được các nhà thơ, nhà văn Trung Hoa ngày ấy đánh giá rất cao. Tiến sĩ Lao Sùng Quang, sứ thần nhà Thanh khi tựa đề “Thượng Sơn thi tập” đã nhận xét Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) là người luôn tự bồi dưỡng về đạo đức nên thơ ông đã đề cao được tính giáo hoá của nó. Nhan Sùng Hoành ở “Việt Đông thi xã” (Quảng Đông) thì cho tài thơ của Miên Thẩm không hề thua kém Tào Thực, con trai Tào Tháo (đi bảy bước làm một bài thơ). Về số lượng thơ Miên Thẩm sáng tác đứng đầu thời bấy giờ (14 thi tập với 2200 bài) – còn chất lượng của “Trường An tứ kiệt” là bốn đỉnh cao văn thơ thời Tự Đức. Điều độc đáo là tình bạn, tình thơ của các vị thật trong sáng (không phân biệt tầng lớp xuất thân, địa vị xã hội, sự khác nhau về khuynh hướng tư tưởng và con đường đời). Khi Cao Bá Quát bị bắt đi hiệu lực ở Giang Lưu Ba, Miên Thẩm là người duy nhất dám “rút kiếm, vì anh hát một khúc bi ca”. Khi Cao Bá Quát bị Vua Tự Đức hạ lệnh chém đầu, Phương Đình (án sát Siêu) vẫn có đôi câu đối viếng:

Ta tai! quán cổ tài danh, nan đệ nan huynh, bán thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử;

Dĩ kỹ! đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hồn trần lưu xú diệc lưu hương.

 Tạm dịch:

       Thương thay tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác;

Thôi nhỉ sự có đến vậy, đáng yêu đáng ghét, dây xấu cũng dây thơm.

       “Chữ tài liền với chữ tai một vần” cứ như một định mệnh?

Còn câu:

       Một người làm quan cả họ được nhờ;

một người làm thơ cả họ bơ phờ…

       Xưa nay, âu cũng có phần chí lý!

                                                    Viết tại Huế, 10 tháng giêng 2007

 

       Bài 2:  CÂU ĐỐI “NHẤT SINH ĐÊ THỦ BÁI MAI HOA” CÓ PHẢI CỦA CAO BÁ QUÁT?

 

       Trong tạp chí Diễn đàn văn nghệ VN số 3/2006, nhà thơ nổi tiếng Phạm Tiến Duật (Tổng biên tập) có đăng bài thơ “cây mai trắng trong phòng Tổng Biên tập” tặng nhà văn, thiếu tướng Hữu Ước, có dẫn ở phần “đề từ” câu đối của Cao Bá Quát:

       Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

Dịch là:

       Mười năm lặn lội tìm cây kiếm cổ

Một đời chỉ biết lạy hoa mai

Theo các tài liệu đã được các nhà nghiên cứu tiền bối công bố, thì đôi câu đối trên có xuất xứ như sau:

Theo “Như Thanh Nhật ký” năm Mậu Thìn (1868) vua Tự Đức cử đoàn sứ bộ sang triều cống nhà Mãn Thanh: cầm đầu là chánh sứ Lê Tuấn (đỗ Hoàng Giáp năm 1853); phó sứ là Nguyễn Tử Giản (Hoàng Giáp năm 1884); phó sứ thứ 2 là cử nhân Hoàng Tịnh.

       Hành trình của sứ bộ theo lối xưa từ ải Nam Quan đến Yên Kinh “bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền” mất 181 ngày (lưu trú 64 ngày đi 117 ngày trong đó 44 ngày đường bộ, 73 ngày đường thuỷ). Khởi hành ngày 1/8 Mậu Thìn, sau 125 ngày thì đến huyện thành Hà Dương tỉnh Hồ Bắc, ở đó đoàn Sứ bộ Việt Nam được viên tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối cho chánh sứ Lê Tuấn:

       Hữu Khẩu tu ngôn thiên hạ sự

Kháng hoài bất nhượng cổ chi nhân

 Tạm dịch:

       Có miệng nên nói việc thiên hạ

Nghị lực không chịu nhường người xưa.

Câu đối tặng Nguyễn Tử Giản:

Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

Tạm dịch:

Mười năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ

Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai

 Câu đối tặng Hoàng Tịnh:

       Truyền thần cổ hữu Lý Tư Huấn

Vấn tự kim vô Dương Tử Vân

Tạm dịch:

       Truyền thần xưa có Lý Tư Huấn

Hỏi chữ nay không Dương Tử Vân.

       Sự kiện trên được chép trong “Yên thiều bút lục” của Nguyễn Tử Giản (1823-1890) sách viết tay của thư viện khoa học Trung ương, số A.852 tờ 18a-b; Cứ liệu trên đã được các học giả Tảo Trang và Hoa Bằng đưa ra trên tạp chí văn học số 2 - Hà Nội năm 1972, trang 61 và 64).

       Câu đối “… bái mai hoa” của Ngải Tuấn Mỹ tặng Nguyễn Tử Giản là vào năm 1868, trước đó 14 năm, Cao Bá Quát đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (Giáp Dần 1854)… phải chăng người đời do quá yêu Cao Chu Thần nên cứ thích tương truyền câu “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của ông như một giai thoại để đời?

                                               Góc Thành Nam – Hà Nội ngày 5-12-2006

 

Bài 3: ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH BÀI THƠ “PHONG KIỀU DẠ BẠC”

 

Bài PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:

       Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều

Trăng tà tiếng quạ kêu sương

Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

       Đến nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy ai là tác giả bài dịch thơ trên? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả “Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Ba Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một đêm ngồi trong thư phòng bên bo sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong kiều dạ bạc… Ông hạ bút:

       Đăng tiền độc đối thư trai

Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân

Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận

Tòng hà lai trạo tấn giang biên

Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên

Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.

 Đại ý là:

       Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…

       Cái độc đáo của Đinh Nhật Thân ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế (ở Huế) “Dạ văn Diệu Đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:

       Quạ kêu, trăng lặn, trời sương

Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ

Thyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Thật đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu (một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ “dịch sai”, văn chương nhất là thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.

       So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được.

       Chao ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ) để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?

                                                                              Hà Nội 19/7/2006

 

       Bài 4:  THĂM HÀN SAN TỰ

 

Đến Tô Châu ai cũng háo hức đi thăm Hàn Sơn Tự. là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên, pháp danh là Hàn Sơn Tử Giả xây vào khoảng năm Thiên Giám đời Lương, thuộc Nam Triều (Thế Kỷ Vl), tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương môn, phía tây thành Cô Tô (Nay là Tô Châu). Thiền Sư lấy tên hiệu (pháp danh) của mình đặt tên cho chùa “Hàn Sơn Tự” để làm kỷ niệm. Từ đây thiền sư lại vân du đi chơi núi Lạnh (Hàn San) đó là núi Thiên Thai (nơi sinh ra dòng tu Thiên Thai Tông) kết bạn với Thiền sư Thập Đắc Phong Can. Bức hoành phi với bốn chữ đại tự “Hàn Sơn Thập Đắc” có nghĩa là chùa Hàn Sơn lấy tên hai người là Hàn Sơn và Thập Đắc mà lưu danh.

Trải qua nhiều biến động của các triều đại, chùa Hàn San bị binh lửa đời Thanh đốt cháy (năm 1860), đến năm Quang Tự thứ 3 (1904) chùa được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày nay, gồm có: Đại điện, Tàng kinh lâu (lầu chứa kinh), Chung lâu (lầu chuông), Phong giang lâu (lầu ngắm rừng phong bên sông), bi lang (hành lang đặt bia). Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng thi sĩ Trương Kế, mà theo tục lệ: các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để được tăng thêm nội lực, được chia sẻ một chút hồn thơ… đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá, trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường (khoảng trước năm 754).

       Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hoả đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Dịch thơ:

       Trăng tà, tiếng qụa kêu sương

Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

                                    Nguyễn Hàm Ninh

(Trước đây cho là của Tản Đà dịch)

       Dịch “Thuyền ai đậu bến Cô Tô” là dịch thoát ý, dịch đúng phải là:

       Trăng lặn, sương mờ, nghe tiếng quạ

Lửa chài cây ánh, giấc chưa yên

Cô Tô bên mái Hàn San Tự

       Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.

                                                      Bùi Khánh Đản

       Quạ kêu, trăng xế, sương tuôn

Lửa chài cây bến, giấc buồn ngó nhau

Chùa Hàn San mé Tô Châu

Nửa đêm bỗng tiếng chuông đâu đến thuyền.

                                                       Hoài Anh

       Sự ra đời của bài thơ: theo giai thoại thì Trương Kế người Tương Châu một lần đi thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận Hà bắc nam,đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều (bến Cây Phong) bên chùa Hàn San (Hàn San đây là tên chùa, chứ không có núi Lạnh như một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ… vào thời bấy giờ (đời Đường) người ta có “phân dạ chung” (chuông chia đêm) đánh vào lúc nửa đêm… Thi Sỹ buồn (vì thi trượt) nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông(lão đánh cá) giữa trời sương, trăng lặn lảnh tiếng quạ kêu cùng tiếng chuông chùa Hàn San nửa đêm vọng tới… tức cảnh sinh tình, Trương Kế hạ bút hồn cất cánh thơ để lại một Phong Kiều Dạ Bạc lưu truyền hậu thế. Cũng nhờ có thơ Trương Kế mà Hàn San Tự trở nên nổi tiếng hấp dẫn khách năm châu bốn biển được các thi nhân viếng thăm đề vịnh. Xin dẫn một vài ví dụ với đôi câu thơ hay:  Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) Tần Thục – đời Tống. Lãnh tận Hàn San cổ tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) Khang Hữu Vi – đời Thanh Còn một điều cực kỳ thú vị nữa là: theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch thì thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt (kể cả nhạc Văn Cao) mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống văn hoá – ngôn ngữ của người Việt. Số là cái bát canh mà ở Bắc Việt hiện nay vẫn gọi là “bát ô tô”, Nam Việt gọi là “tô” thì Đại Nam Quốc Âm tự vị (Sai Gon – 1895) của Paulus Của giải thích là “bát thành Cô Tô làm ra, bát lớn mà khéo”. Tuy nhiên ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa. Theo ý kiến của giới ngôn ngữ học thì đó chỉ là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô theo ý thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự”. Người Bắc Việt nhân đó gọi là bát Cô Tô, rồi gọi chệch là “bát ô tô”, còn dân Nam Việt gọi tắt là “bát tô”, rồi “tô”. Xem thế, đủ thấy sức lan toả về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay! Tô Châu

                                                                                  Hà Nội 6-2006

 

Bài 5:  DỊCH SAI

 

Xưa nay không thiếu gì chuyện “dịch sai”.

Có hai lý do:

Một là do người dịch không hiểu ý tác giả hoặc là vốn chữ nghĩa (cả hai phía ngôn ngữ) không đủ…

Hai là người dịch kiến thức uyên bác nhưng cố tình dịch sai với một ý đồ riêng (xuyên tạc để phục vụ chủ ý của mình); cũng không ít trường hợp “dịch sai” mà lại thành “hay” rất được phổ biến, để người đời tưởng đó là thật, cứ dùng, không chấp nhận bản “dịch đúng nguyên tác” – xin ví dụ:

       1.  Trong bài MINH LƯƠNG (vua sáng tôi hiền) của vua Lê Thánh Tông,câu 3 + 4 là:

       Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo

Vũ Mục hung trung liệt giáp binh

 Dịch đúng là:

       Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng

Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy

Dịch sai là:

       Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê…

       Ở đây Lê Thánh Tông chỉ khen ngợi (Nguyễn Trãi) về mặt tài năng, chứ không nói về nhân cách. “Khuê tảo” là một từ kép đối với “binh giáp”. “Khuê” là ngôi sao chủ về văn chương, “tảo” là một loại rong rêu có mầu sắc đẹp đẽ, do đó  “khuê tảo” là văn chương đẹp đẽ; nếu chỉ dịch là “sao khuê” tức là bỏ từ “tảo” một cấu thành của từ kép “khuê tảo” là làm lạc mất nghĩa của từ kép này. Lý do: Vua cháu (Lê Thánh Tông) khi minh oan cho Nguyễn Trãi (sau vụ án Lệ Chi Viên) cũng chỉ phong tặng cho là tước Trụ Quốc Tán Trù Bá (kém cái tước Quan Phục Hầu mà vua ông (Lê Thái Tổ) đã ban, là vì “Trẫm phải có trách nhiệm giữ gìn uy tín của triều trước (ông cha)”… Với cách dịch ví sánh Nguyễn Trãi với sao khuê chỉ thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Nguyễn Trãi (nhà xuất bản sử học 1963) và trong quyển “Mấy vấn đề sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi” (nhà xuất vản khoa học 1963). Nhờ lời dịch sai như trên lại đem đến cho đời một lời bình phẩm sáng giá, một hình ảnh rạng tỏa về con người Nguyễn Trãi. Có lẽ vì thế mà lời dịch, lời thơ dễ được thiên hạ chấp nhận? (lời dịch sai đã đi vào tâm thức của nhân dân).

       2. Về bài “Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn” (mới ra tù tập leo núi):

       Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân

Giang tâm như kính tịnh vô trần

Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh

Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

 Nam Trân dịch:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi

Lòng sông gương sáng bụi không mờ

Bồi hồi dạo bước Tây phong lĩnh

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.

 Với bút danh T.Lan (Hồ Chí Minh) tác giả đã dịch đúng là:

Mây ôm núi, núi ôm mây

Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng

Bùi ngùi dạo đỉnh Tây phong

Trông về cố quốc chạnh lòng nhớ ai.

       “Ức cố nhân” = nhớ ai, đây là người yêu của Anh Ba (Nguyễn Tất Thành).

       3. Chữ Hán dịch bằng 2 chữ Việt chứa đủ cả Ý, Tình, Sự – Hồ Chí Minh quả là một thi sỹ tài hoa,sử dụng cả hai thứ ngôn ngữ Việt – Hoa vào loại bậc thầy. Giỏi như Nam Trân(1907-1967) 12 tuổi đã thông Hán văn trường Ốc,rồi đỗ Tú tài,làm tới Tá Lý Bộ Lại(trước 1945) sau này làm viện phó viện văn học,tác giả nổi tiếng với tập thơ “Huế đẹp và thơ”… Thế mà so về Thơ(Thi tài) xem ra còn thua Hồ Chí Minh 1 bậc – tuyệt vời thay!

                                                     Góc thành Nam Hà Nội 5-4-2006

 

       Bài 6:  ĐẾN HẠNH HOA THÔN UỐNG RƯỢU

 

       Ai yêu thơ Đường mà lại không thuộc bài THANH MINH của Tiểu Đỗ (Đỗ Mục, đỗ tiến sĩ năm 828):

       Thanh minh thời tiết vũ phồn phồn

Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn

Tá vấn tửu gia hà xứ thị

Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn

 Dịch:

Thanh minh lất phất tiết mưa phùn

khiến khách đường xa thấm nỗi buồn

“Quán tửu đâu đây?… nhờ mách hộ”

Mục đồng xa chỉ: “Hạnh Hoa thôn!”

                                        (Khương Hữu Dụng)

       Thanh minh lất phất mưa phùn

khách đi đường muốn đứt hồn…xót xa

hỏi thăm”- Quán rượu đâu à?

trẻ chăn trâu chỉ: “Hạnh Hoa thôn kìa”!

Bài thơ bất hủ đã nghìn năm, ngày xuân các nhà thơ hay đàn đúm rủ nhau đi uống rượu quê, lúc đương líu ríu dìu nhau tìm nơi tửu quán thường ngâm vang lên bài thơ trên. Vậy, Hạnh Hoa thôn trong thơ Đỗ Mục là ở đâu? Để cho khách lãng du “tá vấn” tửu gia?

       Ở bên Tầu cũng như bên ta, cái thôn Hạnh Hoa (Xóm Hoa Hạnh) đâu có ít, có khác nào rượu làng Vân, làng Mai, xóm cây Phượng, cây Gạo… Đến “Biệt điện Bảo Đại” cũng có ở bốn năm nơi kia. Người viết bài này, cũng đã có phen đến “Quán cây Phượng” ở Phan Thiết ẩm tửu để rồi viết trong lúc say:

Đêm Phan Thiết biển thì thầm to nhỏ

ta tựa kề bên Phượng uống lân khân

57 năm xưa Hàn Mặc Tử

lầu ông Hoàng kia ngồi với Mộng Cầm…

       Bài thơ trôi nổi cùng bạn bè sang mãi New York, Cali… Mỗi khi sa đà vào thơ và quán rượu – kể cũng là cái thú của nghiệp thi ca.

       Còn Hạnh Hoa thôn ở bên Tầu, theo các nhà khảo cứu Trung Hoa thì có đến 3 nơi:

       Một là, ở huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây – nơi đấy có rượu ngon nổi tiếng.

Hai là, ở phía tây huyện thành Quý Trì, tỉnh An Huy; năm 844 Đỗ Mục từng giữ chức Thích Sử tại đây, cũng có Hạnh Hoa thôn nổi tiếng về rượu.

Ba là, ở phía đông nam huyện Phong, tỉnh Giang Tô – nơi Đỗ Mục từng qua lại nhiều lần. Nơi đây Tô Đông Pha (đời Tống) cũng đã từng có đến đây uống rượu và có thơ để lại.

       Chao ôi, thơ và rượu mà lại là rượu nơi xóm quê dân giã, còn gì ấm lòng hơn khi “một chén rượu uống trong chiều lạnh cóng” cùng ai đó ngồi bên bếp lửa bập bùng giữa một trời mưa phùn với hoa Hạnh hoa Mai, tửu nhập thơ xuất là vậy!

                                  Góc thành Nam Hà Nội một chiều Đông, 5-12-2006

 

       Bài 7:  CA DAO HAY THƠ BÀNG BÁ LÂN

 

Hồi năm 1994, Giáo sư Huyền Viêm (Sài Gòn) có gửi cho Nguyễn Khôi (KN) bài viết nghĩ về “một câu ca dao”. Vừa qua Nguyễn Khôi, nhân viết cuốn: “Bàng gia vọng tộc”, lại được gia đình Bàng thi sỹ gửi cho tập: “Thơ Bàng Bá Lân”, gồm các bài thơ chọn lọc trong các thi phẩm: “Tiếng Thông Reo, Xưa, Tiếng Sáo Diều, Vào Thu”, do nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê in 1957 tại Sài Gòn.

Trang 25 phần trích thơ: “Tiếng Thông Reo” có bài:

       TRĂNG QUÊ

       Trời cao, mây bạc, trăng tròn

đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non

diều ai gọi gió véo von

cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?

       Sau khi tốt nghiệp trường trung học bảo hộ (trường Bưởi -Lycée du Protectorat) đậu Diplôme d’Etudes Primaire Superieurs, về điền trang của gia đình ở Kép (Bắc Giang) tiếp tục học để thi Tú Tài, không có thì giờ rảnh, Bàng Bá Lân ở tuổi 22 bắt đầu ham thích chụp ảnh và làm thơ. Tháng 12-1934 Bàng Bá Lân xuất bản thi phẩm đầu tay: “Tiếng Thông Reo” do nhà xuất bản Thanh Hoa Tùng Thư ở Hà Nội in.

       Ngay khi Tiếng Thông Reo ra đời, trên báo An Nam Nouveau ngày 11-4-1935 nhà thơ Chùa Hương Nguyễn Nhược Pháp (sinh 1914) đã nhận xét:

       “Tiếng Thông Reo đượm một mối sầu bâng khuâng kín đáo dịu dàng, một vẻ buồn lành mạnh và điềm đạm.

Nàng thơ của Bàng Bá Lân không phải – như người ta tưởng – người ông yêu dấu mà là Cánh đồng quê với Luỹ tre xanh.

Bàng Bá Lân có thể tự hào là một trong những nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết hưởng thú quê.”

       Hai câu kết của bài Trăng quê ở trên, lâu nay đã được dân gian hoá thành ca dao:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

       Từ câu thơ của Bàng Bá Lân:

       Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?

       Ca dao đã biến đổi chút ít thành:

       Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

       Như ta đã biết: ca dao là thơ dân gian, có nội dung trữ tình (và trào phúng), ta có thể hát, ngâm, đọc… ở câu thơ này chữ ánh xem ra có vẻ phi lý, nhưng nó lại làm cho hình tượng thơ đẹp hẳn lên – mà đẹp lại là tuyệt đỉnh của thơ.

Có ý kiến cho rằng thêm chữ ánh làm non hẳn bài thơ, nhưng còn giữ được chữ múc nghĩa là còn giữ được gần trọn thi vị hai câu thơ này.

       Tất cả duyên dáng và thi vị là ở chữ múc và đổ, nó giúp ta hình dung được nhũng động tác (tát nước đêm), gợi cho ta cái tiếng xich xòm. Bài thơ bốn câu trên là tả cảnh sáng trăng ở thôn quê để xuống dưới có thể hạ chữ múc trăng mà không đột ngột. Chữ lại tỏ ý trách móc: Trăng đẹp thế mà sao cô lại vô tình múc đổ đi?

Ta hãy trở lại xem xét hai câu thơ độc đáo này

       Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc…?

       Đọc đến đây, theo tư duy thuận chiều là đã tát nước ở câu lục (6), nên ta dễ nghĩ vế tiếp theo chữ múc thường hạ chữ nước – Thế nhưng nhà thơ đã không viết xuôi như vậy mà là : trăng vàng đổ đi? thì có sự vênh hẳn khỏi sự đoán trước thông thường, Bàng Bá Lân đã dùng trăng vàng đặt đắc địa vào chỗ vốn là của nước, làm cho sự ước đoán (của bạn đọc) bị hẫng – và do đó lượng thông tin dành cho từ này thật là to lớn, chúng ta (bạn đọc) thì bị bất ngờ và cái kết hợp giả định đó (múc + trăng vàng) đã cho ta sự hứng khởi (hồn chữ có cánh) để thưởng thức một hình tượng thơ Đẹp của một sự mới mẻ múc trăng vàng – một cảm xúc đầy tính thẩm mỹ của thơ.

       Bàng Bá Lân, Nguyễn Nhược Pháp đều đã đi vào thiên cổ, nhung thơ còn mãi với đời … theo lẽ công bằng thì: “Cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar” 4 chữ múc ánh trăng vàng, vừa là của nhà thơ vừa là của dân gian, Đẹp – để cho ta bâng khuâng với hồn dân tộc, âu cũng là cái độc đáo của Thơ Việt nam là thế chăng?

                                         Góc thành Nam Hà Nội ngày 26-12-2006

 

       Bài 8:  ĐÔI LỜI VỀ NGƯỜI DỊCH BÀI THƠ  “PHONG KIỀU DẠ BẠC”

 

       Bài PHONG KIỀU DẠ BẠC của Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến, nhất là qua bản diễn Nôm:

       Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều

Trăng tà tiếng quạ kêu sương

Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

       Đến nay đã có nhiều bản dịch nhưng không có bản nào dịch hay bằng bản đã chép ở trên (dù rằng câu thứ ba chỉ dịch thoát ý) nhưng âm điệu của giọng thơ lục bát lững lờ, kì ảo đi vào lòng người Việt Nam ta thật khó mà thay đổi được !? Vậy ai là tác giả bài dịch thơ trên ? Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961) đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003 Nguyễn Quảng Tuân khi khảo lại di cảo của Đinh Nhật Thuận (1841) đỗ Tiến Sĩ  thời vua Minh Mạng (là bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả “Thu dạ lữ hoài ngâm”. Thời gian Cao Bá Quát bị nạn, ông bị giam lỏng ở Huế… một đêm ngồi trong thư phòng bên bờ sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong kiều dạ bạc… Ông hạ bút:

       Đăng tiền độc đối thư trai

Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân

Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận

Tòng hà lai trạo tấn giang biên

Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên

Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.

 Đại ý là:

Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kè Phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyển khách bên chùa Hàn Dan (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ…

       Cái độc đáo của Đinh Nhật Thuận ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế (ở Huế) “Dạ văn diệu đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương

Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ

Thyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Thật đúng là “diễn Nôm” như Tố Như với truyện Kiều, thi sĩ đã không bám câu bám chữ để dịch như nguyên tác… mà là mượn văn bản gốc, diễn ra tiếng Việt lấy cái hồn của tác phẩm để thoả mãn một nhu cầu (một tâm trạng) để gửi gắm nỗi lòng… Hiểu như vậy, chia sẻ như vạy thì ta sẽ không bắt bẻ “dịch sai”, văn chương nhất là thơ vốn là một trò mua vui, âu cũng chí lí là vậy.

So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” – lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được.

       Chao ơi, dịch thơ phải đạt “tín-đạt-nhã” rồi là “hớp” hồn mà cái “tuyệt” nhất lại là cái hồn thơ ai do chop được cái “thần” do diễn giải ra bằng chữ nghĩa (ngôn từ) để lại các áng thơ bất hủ như Phong Kiều Dạ Bạc, Hoàng Hạc Lâu, Tỳ Bà Hành… thì cũng bõ công dịch thuật, mà xưa nay như vậy phỏng được mấy người?

                                                                             Hà Nội 19/7/2006

 

       Bài 9:  MAO TRẠCH ĐÔNG ĐẶT TÊN VỢ TỪ THƠ ĐƯỜNG

 

Mao Trạch Đông sinh năm 1893 quê ở Hồ Nam Trung Quốc. Sinh thời Mao Trạch đông có 3 người vợ. Vợ thứ nhất ở quê do cha mẹ lấy cho. Vợ thứ hai là nữ chiến sỹ hồng quân, lấy nhau qua cuộc vạn lý truòng chinh... Vợ thứ hai đi chữa bệnh ở Liên Xô thì Mao Trạch Đông làm quen với cô diễn viên Lâm Bình quê Thượng Hải đã ly dị chồng. Sau đó hai người lấy nhau.

Xuất phát từ hai câu thơ của Tiền Khởi:

       Khúc chung nhân bất kiến

Giang thuọng sổ phong thanh

 mà Mao Trạch Đông đặt tên cho vợ thứ 3 vốn là Lam Bình thành Giang Thanh.

Tương truyền tác giả câu thơ trên quê ở Chiết Giang. Một lần đáp thuyền lên mạn Bắc, đến Trường An dự thi. Đến Nhạc Châu (quê Mao Trạch Đông). Tác giả dùng thuyền lên bờ thăm danh thắng cổ tích gần hồ Động Đình. Màn đêm buông xuống chị Hằng nhô lên mặt nuóc. Thi sĩ nổi hứng thơ, khoác áo ra khỏi nhà, ngâm ở trong đình Chiết Liễu. Tương truyền, lúc thi sỹ ngâm thơ, bỗng nghe từ trong Viện Lạc gần bên cũng vọng ra tiếng ngâm thơ. Thi sỹ nín thở lắng nghe, nhưng cũng chỉ nghe được hai câu:

       Khúc chung nhân bất kiến hư

Giang thượng sổ phong thanh

       (Người đàn ở đâu chẳng thấy

Trên sông nổi mấy ngọn núi xanh)

       Thi sỹ rất ngạc nhiên, tán thưởng 2 câu thơ đã tả đượcc cái thần diệu ảo ảo thực thực mơ hồ trong cái tĩnh lặng trên dòng sông trăng như dải lụa nhuộm sắc núi xanh. Thy sỹ vén tay áo, cất bước đến Viện bên mà không thấy ai. Thi sỹ thầm nghĩ chắc là mình gặp quỷ thần, sợ đến nỗi hồn phiêu phách lạc, cố chạy về phòng, nhưng đuổi theo vẫn là tiếng ngâm 2 câu thơ của quỷ thần! Năm 750, thi sĩ đi thi tiến sỹ ở Trường An. Kết thúc bài thi của mình, thi sĩ bỗng nghe vẳng bên tai câu thơ thần

       Khúc chung nhân bất kiến hư

Giang thượng sổ phong thanh

Dùng hai câu thơ thần này, thi sỹ kết thúc bài thi của mình.

Bài thi tiến sỹ của ông được đánh giá rất cao.

Cả bài thơ có hai câu thơ thần này, Nguyễn Khôi xin tạm dịch như sau:

       TƯƠNG LINH ĐÁNH ĐÀN SẮT

Tay giỏi đánh đàn sắt

Thường nghe Thái tử Linh

Khiến Phùng Di tụ múa

Khách Sở khó vô tình

Điệu khổ tê vàng đá

Âm vang cõi u minh

Thương Ngô hờn mến mộ

Bạch chỉ phòng hương linh

Khúc tàn, người chẳng thấy

Trên sông mấy non xanh

       Điều kỳ lạ là hơn 1200 năm sau, không biết có phải ma đưa lối quỷ dẫn đường mà Mao Trạch Đông lại lấy chữ từ hai câu thơ quỷ thần đó để đặt tên cho vợ thứ 3 của mình vốn là diễn viên người Thượng Hải tên Lâm Bình thành Giang Thanh.

Và kỳ lạ thay Giang Thanh cũng kết cục bi thảm như Dương Quý Phi người đẹp của ông vua tài hoa Đường Minh Hoàng (cùng thời thi sỹ thi tiến sỹ Tiền Khởi viết hai câu thơ quỷ thần trên).

 

       Bài 10:  TRỞ VỀ VỚI BẢN GỐC THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

 

Cũng giống như “thơ Bút Tre” hiện nay, từ một type thơ “Bút Tre thật” dân gian đã sáng tác cả trăm, ngàn câu thơ “Bút Tre mới”… Thơ nôm Hồ Xuân Hương đi vào cuộc sống dân Việt Nam ta đã ngót 200 năm (bản in sớm nhất là “Xuân Hương di cảo” in năm 1914; các bản khắc ván “Xuân Hương thi tập” in năm 1921, in năm 1923;bản  chép tay “Quốc Văn Tùng Ký” soạn vào thời Tự Đức đến đầu Duy Tân; các bản chép tay “Xuân Hương thi sao”, “tạp thảo tập”, “Quế Sơn thi tập”, “Xuân Hương thi vịnh”,“Liệt truyện thi ngâm” và “Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập”).Vậy bài nào là chính gốc thơ Hồ Xuân Hương trong số 213 bài đang được lưu hành khá rộng rãi?

       Sau hơn 40 năm âm thầm ấp ủ, nghiền ngẫm… Giáo sư Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch (Người cùng quê xứ Đoài với Phó bảng Kiều Oánh Mậu – người có công lớn trong việc hiệu đính truyện Kiều) – một chuyên gia hàng đầu về chữ Nôm, qua nhà xuất bản văn học, ông đã công bố cuốn “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương” với 84 bài thơ, câu đối. Có thể nói: cuốn sách là một công trình khoa học hoàn chỉnh, đầy đủ, đúng chuẩn nhất về văn bản, dịch nghĩa, dịch thơ, khảo cứu, chú giải, chú thích chữ Nôm, đáp ứng lòng ái mộ của tất cả bạn đọc yêu quý những bài thơ bất hủ của Bà chúa thơ Nôm Việt Nam.

       Tiếp cận thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học, cuốn sách của Kiều Thu Hoạch, chí ít cũng cho chúng ta 3 thông tin rất có giá trị:

- Một là: thời điểm xuất hiện “Xuân Hương thi tập” là thời Vua Minh Mạng (1820-1840)

- Hai là, lúc bấy giờ Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng hay thơ Nôm.

- Ba là, lúc bấy giờ Xuân Hương vẫn còn trẻ, còn được người đời (qua văn bản) gọi bằng “cô”.

Qua các văn bản chữ Nôm xưa, Kiều Thu Hoạch đã loại trừ được một số bài thơ bị gán cho Nữ Sỹ như các bài:  “Đánh cờ người”, “tát nước”, “cái nợ chồng con”, “đánh đu”, ”bà đanh”, “đồng tiền hoẻn”, “ông cử võ”…

Xin giới thiệu một số bài thơ Nôm Hồ Xuân Hương (bản gốc) để bạn đọc cùng thưởng thức:

1. VỊNH THĂNG LONG HOÀI CỔ

Ngân ngất tầng mây một dải cờ

Kinh thành ngày trước, tỉnh bây giờ

Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát

Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ

Bảo Tháp lơ thơ chòm cỏ mới

Hồ sông lai láng bóng trăng xưa

Nào ai Cố lão ra đây hỏi

Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa?

       2. CHƠI KHÁN ĐÀI

       Êm ái chiều xuân tới khán đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Bốn mùa triêu mộ chuông gầm sóng

Một vũng tang thương nước lộn trời

Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn

Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi

Nào là cực lạc là đâu tá

Cực lạc là đây chín rõ mười.

       3. CANH KHUYA

       Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan mấy nước non

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy chòm

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình son trẻ tí con con.

       4. LẤY CHỒNG CHUNG

       Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm chừng mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng

Cầm bằng làm mướn mướn không công

Nỗi này ví biết dường này nhỉ

Thời trước thôi đành ở vậy xong.

       5. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA

       Cả nể cho nên hóa dở dang

Sự này có thấu hỡi chăng chàng

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc

Phận liễu sao mà nảy nét ngang

Cái tội trăm năm chàng chịu cả

Chữ tình một khối thiếp xin mang

Quản chi miệng thế lời chênh lệch

Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.

       6. THƠ THỊ ĐỂU

       Kén chọn làm chi thế ối anh

Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành

Vô duyên nên nỗi người chê “đểu” (1)

Có đẹp chăng thời gái ở tranh

Ghét mặt cục vàng ra cục đất

Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh

Thay lời mượn bút đem thư gửi

Nghĩ lại sao cho để được đành

       (1) Nguyên văn chữ Nôm là “điểu” là chim, có dấu cá nháy – theo tự điển Việt Pháp và Việt Nam tự điển (1931) thì “đểu” có nghĩa là hạng người hèn mạt/ mạt hạng.

       7. CHI CHI CHUYỆN ẤY

       Chi chi chuyện ấy đã đành lòng

Vó ký phen này quyết thẳng rong

Non nước chơi hoài non nước đó

Gió giăng nào phải gió giăng không

Mặt càng đối mặt tình ngao ngán

Tay chửa rời tay bước ngại ngùng

Lão Nguyệt lẽ nào trêu quải mãi

Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.

       8. NÚI BA ĐÈO

       Một đèo một đèo lại một đèo

Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo

Cửa son tía ngắt lơ thơ móc

Đường đá xanh rì lún phún rêu

Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc

Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương reo

Hiền nhân quân tử ai là chẳng

Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.

       9. MIẾU SẦM THÁI THÚ

       Ghé mắt trông lên thấy bảng treo

Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

10. KHÓC TỔNG CÓC

       Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

11. KHÓC QUAN VĨNH TƯỜNG

       Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi

Cái nợ phù sinh có thế thôi

Chôn chặt văn chương ba thước đất

Ném tung hồ thỉ bốn phương trời

Nắm xương dưới đất chau mày khóc

Hòn máu trên tay mỉm miệng cười

Đã thế thời thôi cho mát mẻ

Trăm năm Quan Phủ Vĩnh Tường ôi.

12. TIỄN NGƯỜI LÀM THƠ

       Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền

Cũng đòi học nói nói không nên

Ai về nhắn nhủ phường lòi tói

Muốn sống đem vôi quét trả đền.

13. VỊNH QUẢ CHUÔNG

       Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông

Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.

       14. CHƠI HOA

       Đã chót chơi hoa phải cố trèo

Trèo lên trèo xuống mỏi xương kheo

Cành la cành bổng vin co vít

Bông chín bông xanh để lộn phèo.

       15.VÔ ÂM NỮ (1)

(Gái không âm hộ)

       Mười hai bà mụ ghét chi nhau

       Đem cái xuân tình cắm ở đâu

Rúc rích thây cha con chuột nhắt

Vo ve mặc mẹ cái ong bầu

Nào ai biết được vông hay chóc

Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu

Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh

Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.

       (1)  Các bản khác ghi là “Quan thị”

       16. NGÃ TỐC VÁY LÀM THƠ TỰ VỊNH

       Vén đám mây lên tỏ mặt trời

Lác coi từng đám rõ từng nơi

Giang sơn đâu đó nhô đầu dậy

Hoa cỏ quen hơi mỉm miệng cười.

17. BÙN BẮN LÊN ĐỒ

       Xuân Hương đi đường lội, bùn bắn lên đến “đồ”, tức cảnh vịnh:

       Nê ninh thượng thức cao thâm xứ

Mạc quải anh hùng lưỡng thủ mô

(Bùn kia còn biết nơi cao thẳm

Chẳng trách anh hùng thích mó tay).

18. ĐI ĐÁI BÙN NẨY

       Quân tử anh hùng đâu vắng tá

Để cho nê thổ nảy chơi xuân.

19. XƯỚNG HỌA VỚI QUAN TẾ TỬU HỌ PHẠM

              (Bài 2)

       Xuân Hương xướng:

       Kìa ai tỉnh, kìa ai say

Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Khoan khoan xin hãy dừng tay lại

Chớ mó hang hùm nữa mất tay.

       Họ Phạm (Chiêu Hổ) họa lại:

       Nào ai tỉnh nào ai say

Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Ví dầu hang chẳng cho ai mó

Sao có hùm con bỗng trốc tay.

       20. Câu đối CHƠI ĐÈO NGANG

– Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hòn ngược để đơm người đế bá;

– Trách con tạo lừa cơ tem hẻm, chuốt núi xuôi cho lọt khách cổ kim.

       Thật vui, “cái gì của Xuân Hương trả lại cho Xuân Hương” – Giáo sư Tiến sỹ Kiều Thu Hoạch đã dành trên 40 năm trời để Làm ĐƯỢC cái công việc có giá trị đích thực này – thật là đáng kính trọng.

                                     Góc thành Nam - Hà Nội 30-3-2008

                                                              Nguyễn Khôi


       Bài 11:  LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THƠ HAY

       (thử nhắc lại về bếp núc nghề thơ)

 

       Ai làm thơ chẳng mong có thơ hay: một bài, một câu, thậm chí một chữ độc đáo nổi tiếng để đời (ví dụ: chữ (từ) SÁNG trong câu :”một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng) đó là những hào quang của chữ nghĩa làm cho thơ bất hủ.Đó là trạng thái tâm hồn làm bừng phát tình yêu, khởi điểm của một ý thơ.

       Người làm thơ trước tiên phải có THI HỨNG (nói theo Max Jacob thì đó là trực giác, cái đó gọi là sự quyến rũ). Khi nội tâm gặp cảnh sinh tình bật ra cái HỨNG (sự khởi phát bột trào thành THƠ). Trước thời điểm đó là” chút linh cầu mãi không về, phân vân giấy trắng chưa nề mực đen” như Hồ Dzếnh đã tả, cái phút hứng chưa đến ấy được Tản Đà ghi lại bằng hình ảnh “đêm qua ra ra vào vào, quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì THƠ”. Và “TỨ THƠ chỉ có khi cưỡi lừa đi trên cầu BÁ dưới trời tuyết” như Trịnh Khải xưa đã nói. Đó là vụ nổ Big-Bang để hình thành ra vũ trụ – cái ý tưởng vụt trào ấy trong hồn tung ra TỨ THƠ. Cái TỨ là sự linh ứng – nghĩ ra, phát hiện ra một cái gì đó nó co thể khiến cho cái THẦN (tinh thần) của nhà thơ cảm nhận thấy được sự vật để viết ra những câu thơ (nội dung) mang tư tưởng và tình cảm của tác giả. Ý là do suy nghĩ mà ra. LỜI là do Ý mà đến. Nhà thi sĩ bậc thầy (ông Hoàng của thi ca nước Việt) đã từng dạy “TỨ là hình tượng thơ diễn đạt được một ý trọn vẹn, từ chỗ có Ý sẽ đẻ ra TỨ, có TỨ tất có Ý, nhưng có Ý chưa hẳn có TỨ. Ví dụ: Ý là muốn nói tới sự say đắm si mê của chàng với nàng (đó mới là chung chung chưa rõ ràng), chỉ đến khi thi sĩ thể hiện bằng một hình tượng thơ cụ thể:

Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

(Lưu Trọng Lư)

thì đã là một TỨ thơ độc đáo. Có Ý (ý tưởng) nhà thơ phải tìm tòi sáng tạo để dựng TỨ( như khung nhà, kiểu dáng nhà trong cái ý muốn xây nhà) để thể hiện được sự trọn vẹn của Ý, gợi lên những cảm hứng gây xúc động lòng người, tạo ra những mối liên tưởng rộng mở, có giá trị thẩm mỹ cao(biến cái mông lung chưa có hình thù gì trong trí não thành hình tượng thơ, cấp cho nó một khuôn khổ nhất định).Thi sỹ vắt nặn ra TỨ THƠ khác nào nghệ nhân vắt nặn ra đồ gốm sứ vậy.Những câu thơ HAY thường là đã mang trọn vẹn một TỨ THƠ:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

(Chế Lan Viên)

Không ở rể mà vẫn là rể quý

Để mỗi năm lại lên Tết Chiềng Ly

(NK)

Dù tản mát khắp chân trời góc bể

Còn tấc lòng vẫn gửi gắm nơi quê.

(NK)

Tháng giêng ngúng nguẩy thẹn thò

Bàn tay ủ ấm đôi vò rượu tăm.

(Lê Đình Cánh)

Khi em đến gương trăng vừa lặn mất

Em dịu hiền tươi mát một vầng trăng.

(NK)

Thầy giáo dạy NK hồi cấp 3 đã nói: đọc thơ, về thực chất là ta đang thưởng thức một TỨ THƠ. TỨ trong toàn bài là một hình tượng THƠ xuyên suốt cả bài thơ, thể hiện tư tưởng nghệ thuật của bài thơ. TỨ THƠ mang đặc điểm của cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ.(mỗi người một cách).

Như vậy công việc quan trọng cốt lõi của người làm thơ là phải tìm được TỨ THƠ (lao tâm khổ tứ là vì thế) – nó tương tự như nhà tiểu thuyết phải có “cốt truyện” vậy.Đầu để bài thơ nhiều khi đã chứa đủ cái TỨ THƠ trong đó, nói cách khác là: đầu đề thơ ôm trùm TỨ THƠ, khiến người đời đọc xong nhơ mãi, biến thành ấn tượng ăn sâu vào tâm hồn người đọc (Bóng cây Kơnia, Núi đôi, Gương mặt quê hương, Cuộc chia ly mầu đỏ…)

Khi sáng tác cấu TỨ (vắt nặn ra TỨ THƠ) người làm thơ thường có hai cái lo: ai đó mà mạch suy nghĩ bế tắc thường thơ nghèo nàn . Kẻ lắm lời thường là thơ lộn xộn. Hiểu biết rộng thì cứu được sự nghèo nàn. Nắm lấy một điểm (ý chính) để xâu suốt tất cả, đó là thứ thuốc chữa bệnh lộn xộn.Tình cảm tư tưởng của bài thơ vô cùng phức tạp và khó nắm bắt. Hình thức của nó cũng khác nhau và thay đổi.Có khi lời thô kệch lại nảy sinh cái ý (Tứ) hay, có khi việc tầm thường làm tóat ra ý mới.

Một bài thơ đạt tiêu chí HAY phải là ý mới, tứ lạ, đồng thời còn lệ thuộc vào cái tài hoa trong việc diễn đạt tình cảm tư tưởng với ngôn từ điêu luyện(sáng tạo từ mới), không lặp lại các chữ (từ) đã sáo mòn cũng như thủ pháp triển khai cấu TỨ sao cho hình tượng thơ sống động…Trong một bài thơ phải có những câu đột xuất, chữ độc đáo (nhãn tự- chữ mắt) đầy hình tượng, gây ấn tượng sâu sắc vào lòng người đọc để cho bài thơ bất tử,trẻ mãi không già.

Tóm lại TỨ THƠ là đặc sản của tâm hồn thi sỹ, mỗi người tạo ra cái riêng, cái cốt cách độc đáo của mình với một ngôn ngữ giọng điệu không giống ai. TỨ THƠ là rường cột kết cấu nên bài thơ làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ (chứa đựng triết lý sâu sắc nội dung có tầm bao quát lớn).

Cái “Siêu” của một số nhà thơ có tay nghề cao là đã biết cắt tỉa bớt lá cành rườm rà của một Ý thơ để làm bật TỨ là phần tinh túy nhất của bài thơ (ví như bông hoa) để thêm phần rực rỡ (Là ngụy trang, Ngọn đèn đứng gác, Dáng đứng Việt Nam).

Theo thiển ý của NK thì ngoài những lý sự trên, người làm thơ muốn có thơ HAY phải là người có tâm hồn, nung nấu, ấp ủ một cái gì đó để rồi bất chợt tức cảnh sinh tình bật ra thi hứng, tạo ra TỨ THƠ…(chứ không phải cố nghĩ, cố rặn ra thơ, ghép vần rồi tự vỗ đùi “tuyệt tác!”). THƠ HAY không lệ thuộc vào thể loại cũ mới, vấn đề là có hồn hay vô hồn, ý mới , tứ lạ và có ĐẸP hay không? và THƠ HAY còn phải là thơ để cho người đời ngâm, đọc một cách thích thú nữa kia. Nói thì dễ, làm thì khó, thôi thì:

Ta dù lếch thếch lôi thôi

Mong thơ sinh hạ cho đôi ba dòng.

(Nguyễn Duy)

                           Hà Nội ngày 13 tháng Giêng năm 2002

 

       Bài 12:  TIÊU CHÍ TỰ ĐÁNH GIÁ (THẨM ĐỊNH) MÌNH ĐÃ LÀ NHÀ THƠ HAY CHƯA?

 

Anh chỉ là thi sĩ

Khi luyện văn thành thơ

Hãy sáng tác những loại thể lớn như 5 chữ, lục bát, 7 chữ, 8 chữ, để thấy được độ sai lệch rõ rệt về cấp bậc giữa hoài niệm và vè, dân tộc và diễn ca, hàn lâm và vịnh, hoành tráng và tấu, có thể diễn trên đồ hình sau:

A 5 chữ B

Vè <——————–> Hoài niệm

Lục bát

Diễn ca <————–> Dân tộc

7 chữ

Vịnh <—————–> Hàn Lâm

8 chữ

Tấu <————— –> Hoành tráng

Qua đó sẽ thấy được tầm cỡ (đẳng cấp) nhà thơ.

Cái mạnh của thơ 5 chữ là chất hoài niệm

Ví dụ:

Tháng giêng bụi mù trời

Tháng giêng buồn một thuở

Thèm một hạt mưa rơi

Thấm ướt lời than thở.

(NK – Tháng giêng Buôn Ma Thuột)

Hễ non tay thì sẽ thành Vè.

Ở tầm một khúc ca dao:

Con trời chẳng biết mặt cha

Lớn lên trung dũng tài ba lạ thường.

(NK – con gái Phủ Từ)

Đến lục bát là rõ rệt nhất: làm được tốt thì đấy là tính dân tộc, còn không thì chỉ ở tầm diễn ca.Đó là hồn thơ dân tộc, nói như Giáo sư Cao Xuân Huy thì quân thế biểu hiện trong niêm luật lục bát thật là bằng phẳng, không gì lật đổ được, khác với quân thế của thơ Đường co khi rất chênh vênh nguy hiểm. Có người nói: “cho tôi xin một ít lục bát, tôi sẽ thưa: anh có phải là nhà thơ thứ thiệt hay không?”

Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn

Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương

Chỉ một câu “sương trinh…” đã đủ đưa Xuân Diệu lên hàng Siêu thi sĩ rồi.

Thứ lục bát “đanh” đến lạnh người của tác giả”độc hành ca”, theo kiểu”nẻo về chật chội áo cơm” thì đến nay vẫn chưa có ai viết nổi.Đỉnh cao la Nguyễn Du, còn rơi tõm xuống loại “thơ Bút Tre”:

Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên

Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về.

Thì ôi thôi cho thơ rồi!

Cái mạnh của 7 chữ là nét Hàn lâm:

Vượt biển, chơi hồ, trở quá giang

Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng

Cái đêm hè ấy ai ra tắm

Để cả bầu trời phải tắt trăng.

(NK – Ao làng)

Yếu sức thì rơi vào Vịnh.

Cái mạnh của 8 chữ là nét hoành tráng:

Thôi, cứ để cho thời gian gió thổi

Gieo vào lòng một chút sóng Sông Lô.

(NK – Gửi Tuyên Quang)

Nhưng nếu làm không khéo thì thành ra Tấu.

Ôi biết bao nhiêu người say sưa làm văn vần, giỏi diễn ca cứ tưởng mình là nhà thơ đích thực. Thơ HAY phải có ý mới, tứ lạ, hình tượng rõ, tình đậm, ngữ nghĩa đổi mới và chứa chất đầy tâm hồn thời đại kia?

(NK Biên soạn lại theo Nguyễn Phan Cảnh để tự thẩm định lại thơ của mình)

Đình Bảng Xuân Tân Tỵ 2001

 

Bài 13: ĐỌC LẠI BÀI TỰA TRUYỆN KIỀU NĂM 1820 CỦA TIÊN PHONG MỘNG LIÊN ĐƯỜNG CHỦ NHÂN

 

       Ngày trước, các ấn phẩm in truyện Kiều (đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du, mở đầu thường có hai bài tựa:

– Bài thứ nhất của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân (1820)

– Bài thứ hai của Phong Tuyết chủ nhân Thập thanh thị (1828)

Cùng bài thơ chữ Hán (đề từ – thi vân) của Lương Đường Phạm Lập Trai (Phạm Quý Thích)

Về bài “tựa thứ nhất” của Mộng Liên Đường, viết vào năm 1820, đây là năm Canh thìn, Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mệnh nối ngôi – đồng thời cũng là năm Đại thi hào lâm bệnh qua đời ở kinh đô Huế trong một nạn dịch bệnh đương thời làm chết hàng vạn người. Nói theo kiểu cổ nhân: Mộng Liên Đường đề “tựa” Đoạn trường tân thanh mà Nguyễn Du viết vào khoảng năm 1814 sau khi đi sứ nhà Thanh(bên Tàu) về…

Nghĩa là truyện Kiều đã trình làng được 6 năm, tác giả của nó cũng vừa qua đời; người viết có đủ điều kiện và xúc động ở thời điểm vừa “cái quan định luận” để đề “tựa”. Bài viết ngắn gọn, xúc tích dài chưa đầy hai trang giấy mà có nhiều câu người đời sau dẫn đi dẫn lại. Mở đầu bài “tựa”, Mộng Liên Đường lý giải rất khéo về hai chữ “đoạn trường” : “trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình.Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy”.

Sau khi nói về cái lý do mà Tố Như tử đem truyện Thúy Kiều chép trong Lục Phong Tình rồi “dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả tình đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy?…

Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ ra rằng cái nợ sầu của hai chữ tài tình, tuy khác đời mà chung một dạng. May được nối ở đằng sau quyển “Tân thanh” của Tố Như tử, cũng là một khúc đoạn trường để than khóc người xưa.”

Tháng hai, niên hiệu Minh Mạng (1820)

            Viết ở Thán hoa hiên đất Hạc Giang

                     TIÊN PHONG

Mộng Liên Đường chủ nhân

Tiên Phong và Mộng Liên Đường (đình) là tên hiệu của Quan chức – nhà văn Nguyễn Đăng Tuyển(1795-1880) hậu duệ Trạng Bịu (Nguyễn Đăng Đạo 1651- 1719) quê ở thôn Thượng(tên nôm là làng Bịu Thượng) xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh.

– Nguyễn Đăng Đạo, đỗ Trạng Nguyên năm 33 tuổi, niên hiệu Chính Hòa, đời Vua Lê Hy Tông 1683. Năm 1687 ông được cử đi sứ sang Tàu vào chầu Vua Khang Hy nhà Thanh.

Do đối đáp, thi thố văn tài với sứ thần các nước, có các bài đệ lên ngự lãm, được Vua Khang Hy (một vị Vua nổi tiếng hay chữ) phê cho Trạng Bịu: “Bắc Triều đệ nhất Trạng Nguyên”. Theo sử sách: ông là người trung thực, thương dân, làm tới chức Tham Tụng(Tể Tướng). Ông mất năm Vĩnh Thịnh thứ 15 – vua Lê Dụ Tông phong tặng Lại Bộ thượng thư, Thọ quận công, ban cho bốn chữ “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên” và một đôi câu đối:

Tiến sĩ, thượng thư, thiên hạ hữu

Trạng Nguyên, tể tướng, thế gian vô.

– Ông nội của Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Vỹ, đỗ tiến sỹ năm Bảo Thái (1720 – 1729) đời Lê, làm quan tới hàm Thiếu Bảo, tước Kế Thiện hầu .

– Cha Mộng Liên Đường là Nguyễn Đăng Chiểu đỗ hương cống(cử nhân) làm quan đến Hồng Lô tự khanh. Cuối đời Lê loạn lạc ông đưa vợ con lánh lên xứ Đoài, làm nhà thuộc huyện Tiên Phong, trấn Sơn Tây. Thời Lê huyện lỵ Tiên Phong đóng ở xã La Phẩm(nay thuộc huyện Ba Vì – Hà Nội).

– Nguyễn Đăng Tuyển từng đỗ Tú Tài được bổ làm giám sinh ở Quốc Tử Giám. Năm Minh Mệnh thứ 17(1836) được bổ làm tri huyện Vị Xuyên(Tuyên Quang) sau chuyên về Kinh làm chủ sự ở Bộ Hộ rồi được thăng Thừa Chỉ, Thị Độc. Ông là người “vì văn học mà được Vua biết đến” thường được Vua Tự Đức cho ngồi bên cạnh dự các kỳ thi do Vua chủ trì, ông đã soạn các quyển”Đào hoa mộng ký”, “Nam thị quốc phong”, dâng Vua xem, được tán thưởng, chuyển làm trước tác rồi được sung chức Biên Tu Quốc Sử Quán. Năm 1856, ông được bổ Tri Phủ Thuận Thành(Bắc Ninh) rồi xin hưu trí. Tuy đã về hưu,ông vẫn được

Vua cho người về thăm hỏi, lại sai làm Vịnh sử ca.Vào dịp Vua 50 tuổi(ngũ tuần đại khánh) , ông dâng thơ tụng, được ban thưởng, vài năm sau thì mất, thọ 86 tuổi.

Nguyễn Đăng Tuyển – một cây bút tài hoa, ông lưu danh cùng Tố Như tử với tên hiệu “Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân” (bài tựa) được dịch in trong sách “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, in năm 1925 và tái bản nhiều lần.Nay đọc lại lời bình sâu sắc của ông”xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn nguyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh ấy gẩy xong mà oán hận vẫn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên”đoạn trường tân thanh” cũng phải.”

Nay đã qua 189 năm, đọc lại bài tựa truyện Kiều của Mộng Liên Đường, kẻ hậu sinh (NK này) vướng duyên hàn mặc(bút mực) vẫn thấy văn chương của bậc tiền bối như nước chảy mây trôi, sâu đậm tình người truyền lại cho con cháu cái tài, cái tình theo cánh Rồng bay lên quả là hứng khởi biết chừng nào?

                     Cẩn Bút

Góc thành nam Hà Nội, 2-9-2009

 

       Bài 14:  NHÀ THƠ HOÀNG CẦM

 

Thi sỹ sinh đêm 12 tháng giêng năm Nhâm Tuất (tháng 2 – 1922) đêm trước của hội Lim quan họ; mất lúc 9h sáng ngày mùng 6-5-2010 tại Hà Nội.

Tên khai sinh là Bùi Tằng Việt (Họ Bùi, ghép tên làng nơi sinh: Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Quên cha: thôn Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh(cụ thân sinh là đồ Nho có tham gia Đông du và Đông Kinh Nghĩa Thục). Mẹ là chị hai quan họ làng Bịu Xim,  huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.

Hoàng Cầm nổi tiếng ngay từ năm 1942 với kịch thơ Kiều Loan; thời kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng với bài thơ dài “Bên kia sông Đuống”(1948); và hình như câu thơ mở đầu thi phẩm tuyệt tác này (đầy chất quan họ và hồn quê Kinh Bắc) : “Em ơi buồn làm chi…” như một tuyên ngôn đời, tuyên ngôn thơ Hoàng Cầm, rất định mệnh, rất tiên chi của một đấng tài hoa xứ Kinh Bắc rất hiểu đời, vượt trên mọi cái trầm luân của đời thường, cứ “đường ta ta cứ đi”, đi dưới “mưa Thuận Thành”, đi tìm “lá diêu bông”… luôn đổi mới, cách tân thi pháp để có những vần thơ bất tử, đọc lên nghe xao xuyến lòng người như ” váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” để “từ thuở ấy/em cầm chiếc lá/đi đầu non cuối bể/gió quê vi vút gọi… diêu bông hỡi… ới diêu bông! “

Thơ Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần của quê hương Kinh Bắc – miền quê Quan họ.Xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, khá dân chủ, bình đẳng.Con người ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng.Hội đồng kỳ lão có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức dịch như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát quan họ, vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, chức vị, không dè bỉu “tiền án, tiền sự”… Tất cả chỉ là “liền anh, liền chị”, các quan viên họ cùng say đắm với “yêu nhau cởi áo cho nhau” và “bao giờ thấy lá diêu bông/để cho váy lụa buông chùng… mà hay!”

Thơ Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc đáo, một phong cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng.Thường bất chấp văn phạm.Ông là người kế tục Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại – một lối thơ siêu thực hôm nay.Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải thoát.Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Bắc Ninh đạt tới độ Hàn Lâm.Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh.Rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên không hiếm khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức.Như lời ca quan họ, thơ Hoàng Cầm là ngọn lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như ai đó dù đi đâu, đến đâu vẫn gửi hồn về Kinh Bắc thân thương. Thơ Hoàng Cầm đang đi từ chân trời xưa cũ đến chân trời nay tươi mới để ta thêm yêu những chân trời đang có người bay với những người bay đang tới một chân trời đổi mới đầy xán lạn, rất thơ.

Đình Bảng ngày mùng 1 Tết Ất Dậu (2006)

Hà Nội ngày 6-5-2010

SƯƠNG CẦU LIM

Chấp chới lá chè non

                     Cầu Lim, Nội Duệ

The Hà Đông đón kiệu

                           Bỏ quê Xim

Ếch Quế Dương xếp đùi tròn gõ trống

Sáo sậu Phù Ninh

                           rợp nắng

Về Thăng Long

 

Đá nghển trông con

                           gục đầu sườn núi Dạm

Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền

 

Đè ngang khói bếp

Bặt mùi khoai nướng

Đầu rau nằm sấp toạc môi

 

Trống Chờ thúc chín tiếng

Chuông Trõ nện ba hồi

Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo

Thầy Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo

Biết lòng chim sáo ri

Gái Cầu Lim,Nội Duệ đã đi

Hoàng Cầm

 

Lời Bình Của Nguyễn Khôi:

Đọc thơ Hoàng Cầm có khác nào đọc  Marcel Proust (văn hào Pháp 1871-1922) với “Đi tìm thời gian đã mất”… đó là kết tinh của cuộc sống nội tâm với những trăn trở về quá khứ. Tất cả thời gian đã mất trong khi quan sát dòng xoáy ngoài đời, nay thi sỹ đã tìm thấy lại, một hồi tưởng tha thiết biến kết quả quan sát thành chất liệu của thi phẩm.Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành trình thơ Hoàng Cầm.

Cũng như “lá diêu bông” đến “sương cầu Lim”, nhà thơ Kinh Bắc lấy những địa danh cụ thể để nói những cái không cụ thể (một thế giới riêng hư ảo, ẩn hiện giữa một không gian mênh mông của miền quê Quan họ), có khác nào một thoáng Đường thi miêu tả cái cao bằng cái rộng (dục cùng thiên lý mục-cánh thướng nhất tầng lâu).Bắt Hòn Đá và Ông Đầu Rau thành người, đó là cái “mã” chuyển hóa các giác quan, một nghệ thuật bậc thầy mà trong thơ Hoàng Cầm nào đâu có ít. Thơ Hoàng Cầm giàu âm điệu, như ông nói”nhạc là cái xe chở hồn của bài thơ”. Ở đây những câu thơ dìu dặt luyến láy là do sắp đặt, nhưng giai điệu bài thơ thì lại xuất thần vượt khỏi sự chủ ý của tác giả, như tự mình nó (văn bản thơ ) dựng được cả một không gian tinh thần (không khí và văn hóa Quan họ), một vương quốc thơ của riêng Hoàng Cầm.

Về ngôn ngữ thơ: Hoàng Cầm rất tài tình trong việc sử dụng các động từ (như “đá nghển”…lụa vàng xé lộc…rồi nện, khua… thật kỳ diệu với thơ).

Cùng với Lá Diêu Bông, cây Tam Cúc thì Sương Cầu Lim là một trong những bài cao thủ, độc đáo nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi thành công trong thi pháp của nhà thơ hôm nay.

Viết tại quê xóm Đình, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Mồng 1 Tết Ất Dậu (2005)

 

       Bài 15:  ĐÔI ĐIỀU VỀ VÁY ĐÌNH BẢNG & LÁ DIÊU BÔNG

 

       NK tôi- nhà ở Xóm Đình,làng Đình Bảng (tên Nôm là làng Báng-kẻ Báng),Từ Sơn , Bắc Ninh…nơi có ngôi Đình nổi tiếng Xứ Bắc:

                Thứ nhất là đình Đông Khang

                Thứ nhì đình Báng,vẻ vang đình Diềm.

Đình Bảng cùng với Chợ Giầu (Phù Lưu) là 2 làng Buôn bán lừng lẫy,ở Quê nhưng đã đô thị hóa. Người Đình Bảng sớm tiếp thu văn minh phương Tây : trai complê-Càvạt,nữ áo dài váy lụa; đặc biệt là đã cải tiến sáng tạo ra “nếp váy Đình Bảng”-đó là một kiểu váy đẹp của con gái Đình Bảng-Chợ Giầu thời trước năm 1945,thường mặc trong lúc giao tiếp hoặc đi hội. So với “váy nùm rơm” (Phúc Yên), hay “váy bó que” (Hà Nam ) thì Váy Đình Bảng (lụa)cùng với áo dài tân thời đạt tiêu chí sang trọng hợp với các “bà chủ”,”cô chủ” trong giao tiếp làm ăn trên thương trường, tiện cho sự đi lại lên tầu xuống xe…chính vì yêu cầu của cuộc sống mà chiếc váy Đình Bảng được cách tân hợp thời trang ra đời là thế.

Đó là loại váy lụa,váy lĩnh…màu đen,nhiều nếp gấp,buông chùng tới mắt cá chân,phía trước lượn hình lưỡi Chai (con Chai,con hến). Cô Tuyết, cô Nhung, mợ Loan , mợ Thảo lúc bấy giờ đầu tóc vấn khăn nhung,ra khỏi nhà là có khăn vuông to bằng lụa Hà Đông hay khăn nhung khăn len (bông bát tơ-Pháp) tùy mùa bịt to hó,mỏ quạ che đầu.Yếm trúc bâu trắng che bầu ngực đầy sung mãn,áo phin hay cát bá trắng may bó sát eo lưng, cài khuy bấm,thắt lưng lụa màu hoa đào hay phấn hồng,áo dài khoác ngoài màu sắc tùy theo lứa tuổi. Bàn chân gót đỏ đi hài nhung hay dép Săngđan da; váy buông chùng chỉ vừa hở mũi hài. Đồ trang sức là đôi hoa tai mặt đá kim cương, kiềng Vàng,vòng tay đá cẩm thạch,nhẫn mặt ngọc.Đóng bộ đầy đủ xong,các chị,các mợ xuất hành:

               Anh về vui với cày bừa

               để em tay nải gió đưa phương trời…

Đó là một Nàng Giáng Kiều thướt tha yểu điệu,thông minh xinh đẹp-cô gái Bắc Ninh sinh ra từ vùng quê Văn hiến giầu có,trình độ dân trí cao,đảm đang năng động (đã đi ra khỏi lũy tre xanh vào thành phố) tiếp cận thị trường nhanh ,sớm trở thành các nhà triệu phú,tỉ phú lừng danh trên thương trường thời bấy giờ .

Thi sĩ Hoàng Cầm (quê làng tranh Đông Hồ) thuở niên thiếu từng sang chơi Hội Đình Bảng,và đã phải lòng “một chị” mặc váy Đình Bảng,để rồi theo gió quê vi vút gọi thơ thẩn đi tìm Lá Diêu Bông…NK tôi nhà ngay bên đình, đọc thơ của Bác HoàngCầm, hứng khởi đôi vần :

NGƯỜI ĐI TÌM LÁ DIÊU BÔNG

Người đi tìm Lá Diêu Bông

Mình về nhặt những Lá Hồng xếp chơi

Còn duyên buôn Quế bán Hồi

hết duyên Lá Bưởi nhóm phơi ngoài đồng

bao giờ thấy Lá Diêu Bông

để cho váy lụa buông chùng…mà hay

Mình như một kẻ lạc loài

Xóm Đình chả “dạm”…dạm ngoài Kiến An.

 

Đình Bảng, rằm tháng ba

 

Bài 16:  LÁ DIÊU BÔNG – CHIÊU ĐỘC CỦA HOÀNG CẦM

 

       LỜI DẪN: Theo nhà thơ Hoàng Hưng (VN Lagi & Talawas ngày 19-09-2010) thì: Nhà thơ Hòang Cầm viết tập thơ “về Kinh Bắc” từ 1959 – 8 / 1982, chủ yếu lưu truyền bằng chép tay (ngoài luồng) – đây là một sự kiện “hậu Nhân văn – Giai Phẩm”, trong đó bộ 3 “cây-lá- quả” (cây tam cúc – lá Diêu bông – quả vườn ổi) là nổi bật nhất vì chúng được (giới Văn nghệ) xì xầm diễn giải như một lời oán trách của “Em” (văn nghệ sĩ) với “chị” … đại khái là “Em” yêu “chị” , nhưng “chị” đã lừa “Em” , cho “Em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “Em” bơ vơ để đi lấy chồng.

       Theo Hoàng Cầm kể, thì 1974 Công An Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu ấy” … Hoàng Cầm phải ngưng… hậu quả vụ án “về Kinh Bắc” là :

– Hoàng Cầm bị đi tù 16 tháng

– Hoàng Hưng vì xin được, có trong tay mấy bài thơ trên nên bị đi tù 39 tháng.

– Nam Dao (Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng) – Việt kiều yêu nướcCanada bị “cấm cửa” không được về Việt Nam trong 20 năm.

       Sau” Đổi mới” (1986) mãi tới 1994 “Về Kinh Bắc” mới được NXB VH in bằng loại giấy xấu.

       BÌNH:  

LÁ DIÊU BÔNG

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thơ thẩn đi tìm

Đồng chiều

cuống rạ

Chị bảo

Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông

Từ nay ta gọi là chồng

      

Hai ngày Em tìm thấy lá

Chị chau mày

đâu phải Lá Diêu Bông

Mùa đông sau Em tìm thấy lá

Chị lắc đầu

trông nắng vãn bên sông

 

Ngày cưới Chị

Em tim thấy lá

Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

 

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xòe tay phủ mặt Chi không nhìn

 

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu Bông hời…

… Ới Diêu Bông… !

 

BÌNH: Bài này có 2 cách hiểu:

1) Theo kiểu ngây thơ, coi đây là một bài thơ tình thứ thiệt, là một khúc hồi tưởng (viết trong một cơn mơ “vô thức” mà “Thần Linh đọc Diêu Bông”, tôi chép Diêu Bông, thế thôi.)

Đó là mối tình đơn phương của cậu bé 12 tuổi (HC) với Chị Vinh (20 tuổi) ở ga Việt Yên, Bắc Giang thời trước 1945 … một thứ tinh yêu đơn phương của một chú bé ngây thơ huyễn tưởng với một bà Chị sành sỏi” tung ra cái Lá Diêu Bông (ảo huyền) “dứ” trêu chú bé ngây ngốc?

Bài thơ mở đầu bằng “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng” là Thi Sỹ đã lấy cái địa danh (quê Vua Lý) với cái Váy lưới Chai của gái Đình Bảng nổi tiếng thời bấy giờ để tạo sức hút (gây ấn tượng)… tiếp theo là Tác giả tung ra cái Lá Diêu Bông (lá Trời) , huyền ảo, sắc sắc không không như một phép thần thông của “Chị” bủa vây giăng lưới “bẫy” Chú “Em” ngây thơ chạy theo mối tình hư ảo vô vọng…

Thủ pháp “Váy Đình Bảng/Lá Diêu Bông” quả thực là LINH NGHIỆM đã mê hoặc bao lớp độc giả say thơ Hoàng Cầm… Để rồi có Nhạc sỹ phổ thơ Lá Diêu Bông, Cô Nàng Sài Gòn mở “Quán Diêu Bông” như một tình thơ đẹp thu hút rung động bao con tim, trí tưởng tượng của một thời “gió quê vi vút gọi …”

2) Hiểu theo cách: Thơ “ẩn dụ”, cái thâm nho của Thi sỹ (con nhà chữ nghĩa người làng Hồ – xứ Kinh Bắc) mượn truyện tình (bịa) để nói truyên Đời của một thời sau vụ NV-GP… Để ai đó tự suy diễn mà chia sẻ nỗi đau với tác giả.

VỀ NGHỆ THUẬT bài thơ : Đây là nghệ thuật bậc thầy. Thi Sỹ Hoàng Cầm tạo ra hình tượng thơ “Lá Diêu Bông” huyền ảo gây mê hoặc lòng người: – yêu(tình) thì rất tình mà đau (hờn đời) thì thấm tới cõi Thần Linh ma quái… Phải có một hồn thơ siêu viêt, một bút pháp kỳ tài (như viết trong mơ), nỗi đau tình, đau đời, ẩn hiện trong nhau, chữ ít ý nhiều – kể cả đầy ẩn ý … Về ngôn từ: Thi Sỹ dùng cách nói của người Kinh Bắc rất Quan họ như: Trông nắng vãn bên sông (lưu ý tử VÃN), xe chỉ ấm trôn kim, xòe tay phủ mặt… rất dân gian mà cũng rất Hàn lâm; Tất cả ý tứ chữ nghĩa quyện vào nhau để Lá Diêu Bông còn mãi với Đời.

Tóm lại: Bài thơ Lá Diêu Bông nằm trong tập thơ liên hoàn Về Kinh Bắc là “một lâu đài tráng lệ với không gian văn hóa cổ kính hòa trộn với tâm linh hiện đại , những ẩn ức về thân phận con người cùng khát vọng sống của nó” – qua phía âm bản của thơ ta thấy được tiếng kêu bi thương thầm thĩ của người nghệ sỹ tài hoa đầy tính nhân văn, sự ám ảnh về thân phận con người nghệ sỹ trí thức, nỗi thất vọng to lớn giữa lý hưởng và hiện thực cuộc sống của một thế hệ văn nghệ sỹ. Theo thiển ý của NK thì có lẽ sau Tây Tiến (Quang Dũng) thì Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm là một trong những đỉnh cao trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Sáng tác Lá Diêu Bông là Hoàng Cầm muốn gửi một thông điệp đến bạn đọc để giãi bày cái đau tình, đau đời mà Thi Sỹ ẩn nhẫn câm nín bao ngày không nói ra được.

“Lá Diêu Bông” là một bài thơ “thần khẩu hại xác phàm” thời nay, nó rất định mệnh – rất ĐỘC – ai nặng tình vướng phải nó (ở một thời chưa Đổi mới mở cửa) thì đều chuốc lấy TAI HỌA!

Này đã qua 50 năm , mấy nhân vật chính đã đi vào thiên cổ… thế mà nghe lại chuyện cũ (đọc) vẫn thấy sởn tóc gáy:

Diêu Bông hời …

Ới Diêu Bông …

Góc Thành Nam Hà Nội 20-09-2010

Nguyễn Khôi – cẩn bút …

 

Bài 17:  THƠ VỀ PHỐ KÉP

 

“KÉP” là địa linh trong lịch sử Việt Nam,là 1 trong 4 thôn thuộc xã Liệt Hạ (Đông, Hà, Kép, Phù Mỹ) thuộc Tổng Thịnh Liệt, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, Kinh Bắc xưa, nay thuộc T.P Bắc Giang.

Địa danh KÉP xuất phát từ 2 địa danh xưa là “Cần Trạm” và “Cần Dinh” mà ngày 14-10-1407, nơi quân Minh xâm lược, do Tổng binh Trương Phụ và Đô đốc Liễu Thăng chỉ huy đã tập kết quân sĩ để chuẩn bị công phá Thành Xương Giang của Đại Việt…Thời 1955-1975 ở đây có “sân bay Kép” đã nhiều lần “Én bạc” của Không quân Việt Nam xuất kích bắn hạ nhiều máy bay “Thần Sấm”,”Con ma” của không lực Hoa Kỳ leo thang xâm lược nước  Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa !

Năm 1916 cụ Bàng Nguyên Dũng (thân sinh ra Thi Sĩ Bàng Bá Lân) lên đây khai khẩn đất hoang,lập Ấp,khai sinh ra “Thị trấn Kép”…mà biểu tượng là phố trồng toàn Cây Bàng (còn nguyên vẹn cho đến tận hôm nay…)

NK xin giới thiệu chùm “Thơ về Phố Kép” xưa &nay để các bạn đọc cùng thưởng thức:

*1- THƠ ĐỀ GỬI CÁC CON

Cha,cõi phong trần đã trắng râu

Con, tuần khôn lớn mới xanh đầu

Tên nêu bia bảng to là thực

Nghiệp nối cơ cừu phải nhỏ đâu

Cửa hiếu đựng trăm đường sự nghiệp

Nhà Nho riêng một mối sang giầu

Non sông dẫu cách,lòng không cách

Giấy ngắn tình dài dặn mấy câu.

 

       Bàng Nguyên Dũng (1874-1950)

*2- TRĂNG QUÊ

Trời cao, mây bạc, trăng tròn

Đê than hiu quạnh,tre buồn nỉ non

Diều ai gọi gió véo von

Cành xoan đùa ánh trăng non dịu dàng

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ? (1)

     Bàng Bá Lân (1912-1988)

       (1) đây là 2 câu thần cú đã được dân gian “ca dao hóa” trở nên bất hủ:

       Hỡi cô tát nước bên đàng

       Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?

*3- LIÊN NGÂM

Tô Hoài,Nguyễn Bính,Vũ Hoàng Chương

Còi thét vào ga Phủ Lạng Thương

Sở tại Bàng quan chầu xuống xóm

Thi nhân Bá ngọ chuyến lên đường

Dòng trong dòng đục thêm ngao ngán

Chùm chín chùm xanh uổng vấn vương

Nằm muỗi qua đêm chờ sàng dậy

Còi xe phong hỏa xé màn sương.

            Nguyễn Bính-Vũ Hoàng Chương (1942)

*4- LÊN KẾP HỌP

(THƠ LIÊN NGÂM)

Một đoàn Văn nghệ lang thang

Kéo nhau lên Kép thăm Bàng Bá Lân

Đầu trò có Lão thi nhân

Đầu đội nón lính, tay cầm ba toong

 

Người ngông ăn mặc cũng ngông

Thẩn thơ toàn lối “ngược dòng” nói ngang

 

Theo chân thất thểu hai nàng

Nàng Thơ, nàng Quý cùng làng thơ văn

Một nàng yểu điệu thanh tân

Túi thơ khép mở ái ân đợi chờ…

 

Một nàng cặp mắt lơ mơ

Áp xe vận tải thẫn thờ thương ai

Ai đây là một chàng trai

Áo xanh cà vạt ngang vai tải đồ

 

Hai nàng có chiếc Te-rô

Cưỡi không được cưỡi,ô hô dắt dài…

 

Anh Đồ Thư dáng bảnh trai

Aó Tây nón lá địu dài trên lưng

Tâm tình kín mít như bưng

Ngoài xem cử chỉ nói năng dịu dàng

 

Này đây khổ chủ họ Bàng

Giầy “giôn”,găng trắng,vai mang ống hình

Gặp nhau bao xiết cảm tình

Mà xem Văn hóa tiếp mình cũng cao.

     Tú Mỡ-Anh Thơ -Đào Dương (1947)

*5- TỪ GA KÉP

Đôi lứa ban đầu mất lạc viên

Cho ta ngán kiếp nhớ thiên duyên

Chiều nay mộng thắm vừa tơ nối

Vườn cũ ngòi vàng lại gió lên

mây nước dâng cao hồn chắp cánh

trần ai rũ sạch nẻo về tiên

Bao la trăng động miền ân ái

Giọng hát chim trời líu ríu men

     Vũ Hoàng Chương

(Đây là thời ân ái của Vũ & Đinh Thị Thục Oanh (chị gái Đinh Hùng) tá túc ở nhà Đào tiến Đạt-Nhà thơ,trưởng Ga Kép (1942)

*6- SÂN GA CŨ

Tàu không dừng bánh sân ga cũ

Vội vàng qua gửi lại hồi còi

Lan trong gió nhòa dần khói trắng

Buồn bâng khuâng như tiếng thở dài

 

Cây Bàng già dấu xưa còn lại

Hững hờ buông đôi chiếc lá rơi

Nền cũ chơ vơ chiều nắng quái

Sân ga buồn chờ khách vãng lai

     Họa Sĩ Tạ Thúc Bình (1917-1998) quê Kép

*7- THĂM PHỐ KÉP

Hẹn tự thuở nào lên xứ Bắc

Phố cây Bàng đồi núi nhấp nhô

Đâu Cần Trạm,Cần Dinh…Ơi phố Kép

Tiếng còi tàu thức dậy những trang thơ

 

Ai lên lập Ấp ngày xưa ấy

Đồng đất hoang vu hóa phố phường

-Mấy chàng Thi Sĩ phi ngưạ bạch

Lững thững đi vào trong khói sương…

 

Quê hương lạc bước về đâu nhỉ

Nhà cũ ông cha dấu gạch mòn

Sông Thương đôi ngả tình muôn ngả

Thơ nói gì đây với cội Bàng ?

     Nguyễn Khôi

        3-11-2006

*8- GỬI MỘT NGƯỜI GỐC KÉP

Trượt qua thế kỷ vẫn mang mang

Thương nhớ còn đây dãy phố Bàng

Lá non bướm đậu cành xanh lại

Quả chín sao bay gốc cũ càng

 

Em đi đăm đắm cười xuôi nắng

Tôi ở dưng dưng vọng ngược làng

Ngần ấy năm giời bao trận gió

Tình mà không đáy cũng vang vang…

     Anh Vũ

       (Quê Từ Sơn,đang cư trú ở Kép) 2010

                 Đình Bảng, rằm tháng ba

 

Bài 18: TÂY TIẾN – TUYỆT CHIÊU CỦA QUANG DŨNG

 

I- Tiểu sử Quang Dũng:

Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu (tức Diệm)sinh năm 1921 tại làng Phượng trì, tổng Đại Phùng, huyện Đan Phượng(Hà Tây). Quang Dũng là lấy tên con trai làm bút danh(năm 1952 viết tập ký sự “Đoàn võ trang tuyên truyền Việt-Lào”, ký tên là Trần Quang Dũng. Cụ thân sinh là một chức dịch, mẹ là người phụ nữ đảm ven Đô(làm ruộng và buôn bán nhỏ). Gia đình khá giả nên Quang Dũng gửi ra Hà Nội học văn, học võ, học vẽ, học đàn…để sau này, trong lĩnh vực nào anh cũng có những thành tựu đáng kể, trong đó kiệt xuất phải nói là thơ.

 Từ sau ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945,Quang Dũng được cử làm Phái viên Quân Sự Bắc Bộ, làm công việc cất dấu máy móc quân sự, đi các địa phương tìm mua súng đạn, giành chiếc máy bay Nhật ở Ba Vì. Rồi với tư cách Chính trị viên phó Đại đội Tổng vệ binh Cảnh vệ Khu 2…khoảng cuối năm 1947 anh gia nhập đoàn quân Tây tiến. Sau một thời gian chiến đấu ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 51. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ,chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (Kim Bảng-Hà Nam) thi sĩ bồi hồi viết “nhớ Tây tiến”, bài thơ xuất thần viết liền một mạch trong một đêm để trở thành kiệt tác thơ Việt Nam thế kỷ xx.

 Trước Tây tiến, Quang Dũng đã có “đôi mắt người Sơn Tây” rất nổi tiếng với “Vầng trán em mang trời quê hương/mắt em dìu dịu buồn tây phương/Tôi nhớ xứ Đoài mây trăng lắm…”.Về Nhạc thì có “Ba Vì mờ cao” với “từ xa thương nhớ Ba Vì ơi !/thời gian như muốn phai bóng người/giang hồ dừng bước/nhớ nhung Ba Vì ơi ! Sau Tây tiến còn là “Những lang đi qua”,”vườn ổi”,”em mãi là tuổi 20″,”mây đầu ô”,,,cũng như các bài buổi đầu làm thơ”Chiêu Quân”, “cố Quận” đều là những bài thơ hay riêng một chất thơ Quang Dũng.

 Nếu ví Hoàng Cầm (thơ) là tinh hoa của hồn quê Quan họ thì Quang Dũng là “bạch vân thiên tải không du du” là hồn thơ của mây trắng xứ Đoài với “Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc? Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” cùng “mây ở đầu ô mây lang thang…”

 Lang thang lãng tử thích ngao du sơn thuỷ đi đó đi đây là kiếp đoạn trường của đời nghệ sĩ…cái tinh thần thượng võ, cái khí, cái thần của người thơ ấy được đúc nên từ lòng yêu quê hương xứ sở-yêu đời, đời đẹp như thơ, như đời người chiến sĩ chỉ biết hi sinh, chỉ biết phụng sự lý tưởng và đất nước mà nhà thơ đã đi trọn cuộc đời.

 Nhà thơ Quang Dũng từ trần ở Hà Nội ngày 13-10-1988. Ông đã được Giải thưởng Nhà Nước về Văn học. Bài thơ Tây tiến đã được chọn một đoạn khắc vào Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Tây tiến ở Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình)ngày 20-12-1990,và tượng đồng bán thân của Vệ Quốc Quân Quang Dũng được đặt tại Trường Tiểu học quê nhà là một minh chứng về sự tôn vinh của Nhà Nước-Nhân dân đối với Nhà thơ yêu quí của chúng ta.

II - Về địa danh Tây Tiến

Thời điểm 1947 thuộc “Đội vũ trang tuyên truyền Tây Tiến (trung đoàn 52). BCH Đội gồm Đoàn Hải làm chỉ huy trưởng, Phúc Thảo làm chỉ huy phó, Văn Sinh & Quang dũng làm uỷ viên. Trong 2 năm 1947-1948 quân ta đã bám sát quần nhau với địch ở vùng biên giới Việt-Lào, ngoài sự hy sinh, tổn thất trong chiến đấu, trên 200 chiến sĩ Tây tiến đã ngã xuống vì bệnh sốt rét ác tính, suy dinh dưỡng (…đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá…) là vậy !

Mường Lát là một bản dân tộc Thái vùng biên giới Việt-Lào, bên tả ngạn Sông Mã (Thanh hoá) nhưng lại giáp với Mộc Châu(Sơn La) về phía bắc,giáp Hoà Bình về phía nam. Núi rừng ở đây trùng điệp lên tới tận Sài Khao, nơi cư trú của bản Người dân tộc Dao(Man,Mán-“hèn lên Man điệu…”) quanh năm sương phủ. Mùa mưa ở Mường Lát, cả đất trời đẫm trong hơi nước như mây khói bốc lên ngùn ngụt, mịt mù trong đêm. Hành quân từ rừng về bản, bộ đội phải đốt đuốc soi đường,Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” là thi sĩ đặc tả “lửa” ở đây được cách điệu thành “hoa”(như kiểu”đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”).

Câu”trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” là câu thơ tài hoa,làm ta liên tưởng tới câu ca dao xứ Mường :

Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái

trăm thứ trái không bằng trái bông cơm

trăm thứ thơm không bằng thơm con mái…

Mà trái bông cơm là lúa gạo,con mái là con gái tuổi dậy thì…Các chàng trai “Vệ Trọc “(đầu trụi không còn tóc) vừa ở rừng ra thấm đượm tình nghĩa Quân dân,được các em (hoa rừng)chèo thuyền đi đón…thì làm sao quên được “hồn lau nẻo bến bờ” ?Thơ Quang Dũng vừa trữ tình vừa bi tráng là vậy !

III -  Bài thơ buổi đầu trình làng:

Theo tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng tư, tháng năm năm 1949-Văn nghệ Bộ Đội của Hội Văn Nghệ Việt Nam-

Thư ký Toà Soạn: Nguyễn Huy Tưởng

thì bài thơ in ở trang 17,toàn văn như sau :

 NHỚ TÂY TIẾN

 Sông Mã xa rồi,Tây tiến ơi

Nhớ về rừng núi,nhớ chơi vơi.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi;

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời;

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Lương mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời…

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi ! Tây tiến cơm lên khói

Mai châu mùa em thơm nếp xôi.

 

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội giáng kiều thơm.

 

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

 

Tây tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

QUANG DŨNG

                     (Đoàn quân nhân văn nghệ L.K.3)

Chú ý: Pha Lương=Pha luông.giáng kiều=dáng kiều.

Bài thơ thiếu hẳn 1 đoạn 8 câu”doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…trôi dòng nước lũ hoa đong đưa ?”

IV -  TÂY TIẾN

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

 

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

 

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

 

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

 

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

 

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

 

 Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

 

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

 

Tây tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

(Phù Lưu Chanh, 1948)

Và nhà thơ Xuân Diệu phê bình TÂY TIẾN:

Trong tập TIẾNG THƠ(15-5-1949) Xuân Diệu viết :”…Bài thơ hơi buồn, có đoạn buồn lắm:tứ thơ không mới, có những câu văn hoa. Nhưng toàn bài rung rung như những dây đồng. Đọc lên, trong miệng còn ngân âm nhạc. Cái cảnh miền Tây gian nan đặc biệt: bộ đội Tây tiến là một trong những bộ đội nhiều hy sinh. Đánh giặc đã đành,mà người với rừng núi còn tranh nhau ai thua ai được. Một bạn tôi lên thăm bộ đội quá thượng du Thanh Hoá, trên biên giới Việt-Lào kể rằng: “Núi giăng màn trùng điệp;một anh đội viên chỉ quãng chập chùng trước mặt nói: -Một mình tôi phụ trách 5 cây số núi”. Lên đến nguồn Sông Mã, còn đâu là đồng bằng? Lúc mới đầu chưa quen thổ ngơi, nhiều chiến sĩ chết.có lẽ cái rùng rợn buổi đầu ấp sâu vào tâm hồn tác giả. Những chiến sĩ lưa thưa giữa nghìn trùng rừng núi chắc cảm thấy mình”cheo leo chòi biên cương”, cảm thấy mình lạc đời. Những anh con trai Hà Nội lên đến đây cạo trọc đầu, hay là sốt rét rụng cả tóc, người mặc áo chàm hay là mặt lây sắc lá,hay là ốm tái màu da; giặc sợ các anh như sợ hùm :nhưng các anh dù thế nào cũng nhớ Hà Nội cho được:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Bài thơ chỗ thì đẹp,chỗ thì ghê,man rợ rồi lại êm ái;đoạn sau cùng đầy những tiếng từ ly.Những tên đất Sài Khao,Mường Lát,Pha Lương…ngân động.Đến cái tên Sầm Nứa thì câu thơ buồn mà hay quá; hồn đây là tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào:

Tây tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

VI -  BÌNH của Nguyễn Khôi:

a) Bài bình 1:

TÂy TIẾN là một trong vài bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam 1945-2000.Đọc Tây Tiến,ta cứ ngỡ như đang đọc một bài Cổ phong-Tương tiến tửu(của Lý Bạch)đương đại ?Cái lối “tráng sĩ hề”-một đi không trở lại ngang tàng hào hoa của các chàng trai Hà Nội(thời1946). Với thủ pháp nghệ thuật độc đáo theo kiểu 1 câu chia 2 vế âm /dương đối nhau:

dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm

heo hút cồn mây/súng ngửi trời…

đã tạo sự cân bằng hằn vào trí nhớ của người đọc; còn “đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” là câu thơ để đời “tử bất hưu” nghìn năm mới mới xuất hiện !

Cái tài hoa của thi sĩ về mặt dùng “chữ” thì xưa nay ít ai có được,ví dụ như: trong bài thơ có 3 chữ “Hoa”(hoa là ám chỉ về con gái-phái nữ):

– Câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” đây là cái “cảm” của Nhà thơ về cái mùi thương yêu ấy( trong bài thơ “Gửi Tuyên Quang” của NK viết sau 45 năm cũng có cái “cảm” đồng điệu ây:

Đêm Hà Nội đã nhạt mùi hoa sữa

tưởng tóc ai phảng phất hương rừng…)

– Câu “đêm trại bừng lên hội đuốc hoa”:Đuốc hoa đây là “hoa chúc” tưng bừng của cái”kìa em xiêm áo” với “nàng e ấp”…

– Câu “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”,Ai đã từng”đi Châu Mộc chiều sương ấy” đây là vùng thượng nguồn Sông Mã chung giữa ta và Lào ( Sầm Nưa) thường là đi thuyền mà Câu thơ Sống Chụ Son Sao đã tả “hoa Áy rờn trôi ngang Sông Mã” đôi bờ là hoa rừng và các cô gái Thái(VN)-Lào ra sông tắm giặt…

Câu kết “hồn về Sầm Nua chẳng về xuôi” là thể hiện”làm trai có chí xông trời thẳm”của anh Bộ đội Cụ Hồ đi giải phóng dân tộc với tinh thần Quốc tế cao cả!

Quang Dũng với Tây Tiến đã góp phần đưa thơ Việt Nam đương đại lên môt dỉnh cao nghệ thuật lãng mạn cách mạng,hoành tráng với tâm chí “Nay ở trong thơ nên có thép” thật là tuyệt vời Xưa nay hiếm là vậy !

b)  Bài bình 2 (đăng trong thông tin Họ Bùi ở Việt Nam):

Cho đến nay Tây tiến vẫn là một đài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây tiến…chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ,ý thơ,hình tượng thơ Giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Cái độc đáo của bài thơ là không có cấu tứ, cái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm ở cuối bài mà lại nằm ở 2 câu 13=14/34 :

Nhớ ôi,Tây tiến cơm lên khói

Mai châu mùa em thơm nếp xôi

Với Tây tiến,Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ (Vệ Quốc Đoàn-Vệ Út-Vệ túm-lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng-Cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái sắc đất Hà thành(và ven ĐÔ)hiên ngang,hào hoa phong nhã,cái thời”chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh”(tả thực) với “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”(lãnh mạn).

Bút pháp bậc thầy của Tây tiến là Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống(thơ Đường)với “phép đối” trong từng câu,đoạn thơ,từng khổ thơ tạo ra 2 vế âm / dương ,tương phản trong một “Trường đối nghịch”(thủ pháp đối lập)nhằm tô đậm ý tưởng”không ca ngợi một chiều” mà là phản ánh đúng hiện thực của cuộc chiến…đó là sự đói chọi,sự tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí(Việt Nam)chọi lại sắt thép(thực dân Pháp). Thủ pháp đối ý ,đối âm trong Tây tiến với những câu thơ ăm ắp hồn chiến sĩ,tạ nên khẩu khí bi tráng của toàn bài.ĐÓ là lối diễn đạt độc đáo,cao thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơ”dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/heo hút cồn mây súng ngửi trời” để Tây tiến ở một vị trí tượng đài vút lên trời xanh giữa núi rừng Tây bắc hùng vĩ của Tổ Quốc !

Trong Tây tiến có một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó là”có nhớ dáng người trên độc mộc/trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”…đó chẳng qua là một từ HOA”ẩn dụ” cảm từ câu ca dao Xứ Mường”trăm thứ hoa không bằng hoa con gái”mà con gái Thái-Mường là “bông hoa rừng”chèo thuyền độc mộc đưa Bộ đội qua sông đang mùa nước lũ…Qua rồi để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò trên “Châu Mộc chiều sương ấy” cứ đong đưa trong con mắt Người Sơn Tây đẹp đến lạ lùng.

 Cái chết (hi sinh) của người chiến sĩ nay không phải là “da ngựa  bọc thây” mà là”chiến bào thay chiếu anh về đất” để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn vang trời tiễn đưa người anh hùng…

Dùng cái bi,cái mất mát để tôn vinh cái hào hùng…Với cảm hứng lãng mạn cách mạng được đặc tả trên cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng,ma lực kỳ diệu của bài thơ Tây tiến rất kinh điển mà cũng rất hiện đại-Đó là một trong những bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ XXI,hội nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay.

VII  -  Trao đổi với bạn Ý Như:

Về 2 bài thơ TÂY TIẾN và ĐỒNG CHÍ:

Theo thiển ý của NK thì 2 bài này đều viết về NGƯỜI LÍNH, đều do 2 Nhà thơ Lính, cùng thời viết ra nhằm ca ngợi, tôn vinh Anh Bộ đội ( thời kháng chiến 9 năm chồng thực dân Pháp xâm lược );Hai bài thơ này đều thuộc “diện” THƠ HAY (trong số 100 bài thơ chọn lọc thế kỷ 20-nxb Hội Nhà Văn 2007 ),được nhiều người yêu thích và đều được đưa vào Sách Giáo khoa giảng dạy trong Nhà trường CHXHCN VN. Tuy nhiên, cách bình phẩm,cách thưởng thức 2 bài thơ này,với riêng NK cảm nhận thì :

- Bài TÂY TIẾN là 1 trong 5 bài thơ vào loại HAY NHẤT trong số 100 bài chọn lọc kể trên ;Với bút pháp Hàn Lâm,đó là con chim đại bàng  vẫy lên đôi cánh mênh mông trên trời thơ xứ Việt…Nó đẹp hoành tráng,kỳ bí-đọc phải suy ngẫm,rất nhiều ý tại ngôn ngoại…chắc là kể cả mai sau, TÂY TIẾN còn tốn nhiều giấy mực người đời bình phẩm về nó ?

– Bài ĐỒNG CHÍ,với bút pháp bình dân,đó là thứ ca dao được chắt lọc cô đọng: lời lẽ ngắn gọn dễ hiểu,vừa tầm với những người Nông dân (bần cố)mặc áo Lính (thời 1947),đó là Con chim Sáo,chim Bồ câu gần gũi thân thương với quảng đại quần chúng thời buổi đầu Cách mạng.

VIII  -   Đôi lời kết:

Tây Tiến ra đời đến nay đã qua 62 năm, bài thơ cũng như thân phận tác giả đã nếm đủ nỗi thăng trầm thế sự, có một thời khá dài người ta đã cố ý” trẩm” (chìm) nó đi tưởng nó đã đi vào quên lẵng ? – Nhưng không, thây giáo của NK từng bảo : chỉ sợ Thơ anh không hay thôi, con hay đích thực thì sẽ bất hủ Tây Tiến với Quang Dũng quả là vậy . Đây là TUYỆT CHIÊU của Quang Dung- một áng thơ đạt tiêu chí “kim cổ kỳ thi” của dân tộc Việt Nam ta, có bị “đánh” cũng không chết! Nó có thể sánh với HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hiệu, TƯƠNG TIẾN TỬU của Lý Bạch – những thiên thi ca kỳ bí, thiên hạ sẽ còn tốn nhiêu bút mục”bàn” về nó. Ở Việt Nam ta đương đại có 3 Thi sỹ Họ Bùi:

– Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt) với Lá Dieu Bông …

– Quang Dũng (Bùi Đình Diệm) với Tây Tiến, Đôi Mắt người Sơn Tây …

– Bùi Giáng với Mắt Buồn …

Đó là 3 trái Núi thơ ( Thi Sơn ) sừng sững trên bầu trời thơ Việt đứng sau Nguyễn Trái, Nguyễn Du …. Để cho ta tự hào về sự tài hoa trong sáng của tiếng Việt đầy ắp hồn quên. Để thêm yêu tiếng Việt như “ngàn mày tràng giang” say muôn đời./.

Góc thành nam Hà Nội ngày 7-10-2010

 

 

Bài 19:  TÌM HIỂU CÁCH LÀM THƠ CỦA NGƯỜI XƯA

 

Con người ta sở dĩ bay lên được là nhờ hai cái cánh: văn học và khoa học.

Văn là người có học vấn (trái với võ), văn hóa là dùng văn tự (chữ nghĩa) mà giáo hóa con người. Bậc thánh nhân thì́ lập đức, danh tướng lập công, sỹ đại phu lập ngôn.Thi thư là những bộ môn rường cột của văn học.Thuở sơ khai, các bậc huynh trường dùng thơ ca để dạy con em, để chúng trở thành người chính trực ôn nhu, rộng lượng, kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn.Thơ dùng để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ.Thơ ở trong ḷng là chí, phát ra lời là thơ (chí có nghĩa là dừng ở trong lòng nên nó được gắn với hai chữ tình và lý).

Ông cha ta xưa làm thơ là học theo lối Đường-Tống: “Nhà thơ khi có thi hứng thì hồn thơ cất cánh bay bổng lên những khoảng trời cao rộng. Luật lệ quy tắc (các thể thơ) là để điều khiển cái hứng, giúp cho lối phô diễn được hoàn hảo, đẹp đẽ hơn, du dương hơn chứ không phải để bóp chẹt cái hứng, phải biết vứt bỏ luật lệ để giữ cái hứng, chứ không nên hi sinh cái hứng cho luật lệ.Thơ là để tả nỗi lòng, tả bằng hình thức nào cũng được (cổ phong,luật thi..)Hễ tả mà cảm động được lòng người là mục đích đã đạt.Thơ không phải chỉ là những chữ ghép cho thành vần, cho có đối, cho đủ bằng trắc.Các bậc tài hoa theo luật mà không chịu nô lệ nó. Họ biết phá luật để theo hứng, đã tạo nên những bài thơ bất hủ như “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Anh Vũ Châu” của Lư Bạch, “Đăng Cao” của Đỗ Phủ… đều thoát khỏi sự câu thúc của niêm luật”. Sự tác động qua lại của thi hứng và luật lệ có thể tăng cường hoặc trói buộc thi hứng – nhà thơ phải lao tâm khổ tứ để tạo được những bài thơ hay là thế.

Công việc làm thơ đầu tiên là luyện chữ: cách dùng “từ”(chữ) như thế nào, bố cục thơ ra làm sao. Đỗ Phủ đă tâm sự “ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu”(chữ chẳng kinh người, chết chẳng yên).Bì Nhật Hưu thì nói ”bách luyện thành tự, thiên luyện thành cú” (trăm lần luyện mới thành chữ, nghìn lần rèn mới thành câu. Đến luyện câu thì khởi – thừa –chuyển – hợp như thế nào, khử đối ngẫu ra làm sao, luật bằng trắc ra sao, gieo vần thế nào? Luyện chữ đă khó, (ví dụ “chữ mắt“ (nhăn tự) đặt ở đâu để nó tỏa sáng.Câu thơ hay phải có chữ hay đó là những hạt linh đan làm cho đá biến thành vàng.Luyện chữ để cho chữ linh hoạt, sống động , cựa quậy, không nằm bẹp trên trang giấy). Luyện câu lại khó hơn, rồi đến luyện ý (tạo ý mới, tứ lạ) và bao trùm là luyện cách… thơ không có “thi cách” (phong cách riêng của từng nhà) thì coi như vứt đi, loại bỏ. Bảng nhãn Lê Qúy Đôn từng dạy:”một bài thơ hay phải có đủ t́nh, cảnh, sự – mà trong đó Tình là người, Cảnh là trời, Sự là hợp cả trời đất mà quán thông…”

Người xưa dùng đạo lý SÁNG/TỐI để tìm hiểu thơ ca, với quan niệm ”nhìn không thấy không phải là không có, mà là chúng ta không thấy mà thôi”.Ví dụ: mặt trăng vào thượng tuần đến ngày mùng 7, mùng 8 nó mới xuất hiện 1 nửa, c̣n một nửa kia không thấy được.Cái nhìn không thấy ấy là đạo lý, điều mà ta nh́n thấy là sự thật.Ta dùng hình tròn của mặt trăng để biểu thị THI VŨ (vũ trụ thơ) khi mặt trăng hiện ra hình bán nguyệt, một nữa phát sáng để biểu thị mặt sáng trong thơ, nửa kia không phát sáng đại biểu bằng hư tuyến(màu đen) để biểu thị mặt tối trong thơ, hai mặt này đồng thời tồn tại.

Mặt biểu hiện bề ngoài của thơ (mặt sáng) ta thấy được đó là phong cách của thơ, ư và t́nh được diễn đạt bằng cú pháp, luật bằng trắc, cách gieo vần bằng các con chữ, ấy là mặt ta có thể thấy được (hiển hiện trên mặt giấy viết); c̣n những cảm thụ mà thơ mang đến cho ta (cái thứ ẩn dụ, ý tại ngôn ngoại, một thứ “tiếng thầm” – đáo địa nhất vô thanh (là mặt tối) ta không thể trông thấy nhưng ta cảm được.Sự linh diệu, thần diệu của thơ là vậy.

5 BƯỚC CỦA VIỆC LÀM THƠ

Bước 1: Mới bắt đầu học làm thơ

Đó là đi từ các con chữ ghép vần theo thể thơ (5 chữ, lục bát, 7 chữ …) tiếp là “theo thơ t́m lư” (đạo lý) trong thơ có lý:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

- Đồ Chiểu

Bước 2: Đã biết làm thơ theo các thể loại một cách thành thạo (ví dụ: lục bát là phải có “vần”) trong thơ có lư (tức là bài thơ đă có nội dung để nói lên một tư tưởng nào đó) với ”từ lư bàn thơ” tức là nội dung và h́nh thức phải “ăn khớp” nhau.

Bước 3: Làm thơ đă có thành tựu

Đã làm được các bài thơ gọi là có giá trị truyền cảm nghĩa là đă đạt tới mức”thể dụng như nhất”,”lý chính là ở nơi thơ” ”trong thơ có lư”.

Bước 4: Thành NHÀ THƠ (thi nhân)

Lúc này trình độ đă đạt “dùng thể để hiển dụng”, dùng lư để luận thơ, dùng lư để thành thơ.

Đó là các Nhà thơ đạt tiêu chí ”Thi sỹ” – thơ của các vị này đă có “thương hiệu” , đă có những câu thơ, bài thơ Hay cho người đời biết đến, ngâm nga thưởng thức, đă có thơ trong các Tuyển Tập Thơ Quốc Gia.

Bước 5: Thành “Thi Hào”

Đó là nhà Thi sĩ đại danh (grand Poète)

Đó là thơ đã đạt trình độ “thể dụng đều mất” “biến hóa không dấu vết”, nghĩa là “thơ thành lư lập”.Đó là các vị như Lư Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Nguyễn Trăi, Nguyễn Du…

Tuy vậy các bậc tài hoa ấy lại rất khiêm tốn:

* Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch

Lập thân tối hạ thị văn chương”

- Viên Mai

* Thi phú suốt đời, vô ích thật

Sách đàn đầy giá, có ngu không!

- Nguyễn Du

Ngày nay chúng ta làm thơ theo lối “thơ mới” là đă tiếp thu, vận dùng nhuần nhuyễn cái “cách” ẩn dụ của thơ Đường, tính tượng trưng của thơ Pháp để có những Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Quang Dũng, Bùi Giáng… với những vần thơ đọc lên xao xuyến ḷng người, rất hiện đại và đầy bản sắc Việt – đó là những chiếc “áo lụa Hà Đông” của người Việt Nam ta : ĐẸP, nền nă, tươi mát để cho các Thi khách ta đi vào thi đàn thế giới với một tư thế đàng hoàng, cao sang và đầy ấn tượng.

          Góc Thành Nam Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2009

 

Bài 20:  BÙI GIÁNG VỚI MẮT BUỒN

        (Tặng: Bùi Trần Tự)

 

Thi sĩ Bùi Giáng (1 trong 3 thi hào đương đại Việt Nam : Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Quang Dũng (Bùi Đình Diệm).Ông sinh năm 1926 tại Quảng Nam (nguyên quán: Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam), từ trần ngày 7-10-1998 tại Tp HCM (Sài Gòn) thọ 72 tuổi.

Bùi Giáng nổi tiếng về thơ “lục bát cách tân”,Ông đã in 7 tập thơ.Ngoài thơ, Bùi Giáng còn viết sách giáo khoa, bình luận Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, Phan Văn Trị…Dịch nhiều tác phẩm Văn , Triết từ tiếng Pháp, tiếng Đức ra Việt ngữ.

Có ý kiến cho rằng :” Văn học Việt Nam hiện đại có hai “đột phá khẩu” trong ngôn ngữ văn chương là Văn Nguyễn Tuân và Thơ Bùi Giáng ” ? Trước cả núi tác phẩm độc đáo “khó đọc” với cái bút pháp “xí lắt léo” có một lối chơi ‘cà ngẳng”, “cà rỡn” trong thơ cũng như cuộc đời đầy kỳ bí cuồng si của Thi sĩ để hậu thế còn tốn nhiều giấy mực luận bàn về Thơ & Đời Bùi Giáng.

Cũng như các vị tiền bối Nguyễn Du, Tú Xương…luôn tỏ ra vô cùng thương cảm cái biệt nghiệp “hệ lụy nhân sinh” của “Tấn trò đời” (Balzac) mà xưa nay là cái thói riêng của “giống hữu tình”. Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, lớn lên bao nõi ưu phiền. “Con mắt thơ” nhìn đời thấy mọi giá trị đảo lộn. Nếu coi thơ là thế giới ảo, thì ông là Thi sĩ đi giữa hai bờ thực / ảo cuộc đời ở trong vùng Nam Bộ- nam Trung Bộ suốt một thời đảo điên (1945-1975).Năm 1965 ông viết như một lời tự thuật:

Sơ sinh phát tiết muộn lời

Tâm hồn như lộc, trang đời như điên

Muộn lời chậm tiếng đầu tiên

Liền tâu Thần nữ mối phiền lão phu.

(Đề từ tập Rong Rêu)

Thây kệ đời ô trọc, ông “điên” giữa phố thị Sài Gòn. ông là Đười Ươi trong rừng rú còn hơn “lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ”. Đó là cái điên của một con người đã hồn nhiên tin rằng : cuộc đời là một cuộc chơi, ngao du cho qua ngày tháng.Thơ Bùi Giáng cho ta hình ảnh một gã Trung Niên Thi Sĩ khờ khạo đến sâu sắc, ngủng ngẳng một cách nghiêm túc, điên một niềm tin trí tuệ rất triết học thành ra VÔ NGÔN, quê mùa . Thơ Bùi Giáng là tiếng lòng không bình yên, ông đã phá chấp một cách Vô thức, đáng yêu. Con người mang tiếng điên ( một dạng cuồng sĩ) cứ nhón chân để rình bắt chính mình (nói như T.V Thiên An).

Thơ Bùi Giáng là một týp thơ “bụi” , chịu chơi, phóng khoáng của “Bác hai Nam Bộ” (kiểu bác Ba Phi), không ít những câu thơ quý hiếm, lạ lùng… mới bập vào tưởng là Dân gian, đọc ngẫm nghĩ thấy rất Hàn lâm Bác học- đó là một tài thơ đặc biệt trên Thi đàn Việt Nam hậu thế kỷ 20.

Yêu nhau, ngàn vạn não nường

Biển dâu lớp lớp mộng trường so le.

Hiểu như Tản Đà (đời là một giấc mộng) thì ở Bùi Giáng là một cách diễn tả hình tượng thơ thật đọc đáo :vừa truyền thống vừa hiện đại là vậy.

MẮT BUỒN

Bóng mây trời cũ hao mòn

Chiêm bao náo động riêng còn hai tay

Tấm thân với mảnh hình hài

Tấm thân thể với canh dài bão giông

Cá khe nước cõng lên đồng

Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng

Tạ từ tháng chạp quay nghiêng

Ấm trang sử lịch thu triền miên trôi.

*

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa

Bỏ người yêu, bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên đời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con.

Bùi Giáng

BÌNH: Đọc Bùi Giáng là ta du hành lang thang vào cõi thơ, miền tâm thức của ông (cõi miên trường) qua mọi ngõ ngách của mộng, của tình ,của lẽ tử sinh, của nỗi xao xuyến bàng hoàng của một Trung Niên Thi Sĩ “ngày xưa ông ấy là Giáo sư, ngày xưa ông ấy làm thơ, ngày xưa ông ấy giầu có lắm, ngày xưa ông ấy là Tô Vũ chăn dê…Ông ấy uống rượu dưới trăng khuya, đọc thơ nơi quán vắng. Đó là một chàng Thi sĩ ôm trái tim cô đơn, lãng tử, tình yêu đơn phương (người chẳng yêu ta, ta cứ yêu),làm bạn với nhiều trăng gió, phấn hương…Cái hình dáng xưa ấy tuy đã bị “bóng mây trời cũ hao mòn” nhưng trong tâm hồn chàng thì không bao giờ chịu cũ ? và đến khi chỉ còn ‘;Bây giờ riêng đối diện tôi” thì bồng nhiên Người ấy cứ hiện về. Thương người để quá thương thân .

“Gái một con trông mòn con mắt” như trước mặt mà đã tuột khỏi tầm tay…Tất cả chỉ còn trông theo và tiếc nuối…Người ta đã an bài ngời ngời hạnh phúc! - còn ta? “còn hai con mắt khóc người một con” thật là não nuột , thật là chung tình, thật là thơ mộng. thật là khờ khạo…thật là đáng yêu vì tình chỉ đẹp khi tình dang dở kia mà?!

Và… chỉ có Trịnh Công Sơn (Nhạc sĩ số 1 Việt Nam) là đủ tài hoa để chia sẻ nỗi đau cùng Thi sĩ “còn hai con mắt khóc người một con / còn hai con mắt một con khóc người/con mắt còn lại nhìn đời là không/ nhìn em hư vô,nhìn em bóng nắng… nhìn em ra đi, lòng em xa vắng…”

Chao ôi, thơ với nhạc- đôi bạn lòng tri âm tri kỷ để MẮT BUỒN của Bùi Giáng… đưa ta về cội nguồn của nỗi đau đời đầy ngẫu nhiên và phi lý , nhưng vẫn còn “mai sau hẹn với ban đầu/ chờ nhau ngõ khác ngõ màu nguyên xuân”.

Góc Thành Nam Hà Nội 21-1-2005 – thân tặng…

 

 Bài 21: VỀ CÂU THƠ “LÁ TRÚC CHE NGANG MẶT CHỮ ĐIỀN”?

 

Kể từ khi Tử viết bài thơ “Đây thôn Vỹ DẠ ” gứi Cúc đến nay đã được 71 năm…mà cái “án” văn chương này còn biết bao điều kỳ bí để người đời tốn biết bao bút mực (hàn mặc) bàn tán về Nó ?Đấy là cái duyên thơ, cái “son phấn có thần,thơ vô mệnh” cho dù người viết tặng và người được tặng đã đi vào thiên cổ nhưng Thơ thì vẫn cứ làm day dứt lòng người yêu Nó ?

Nguyên tác bài thơ là “Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ”- Thi sĩ viết khi đang nằm trên giường bệnh(1939) là lúc Hàn Mạc Tử đang đau khổ lánh mình với nguồn thơ tuôn 2 dòng lệ…rồi chết sau đấy đúng 1 năm tròn ! Đây là tình yêu đơn phương của Tử với Hoàng Thị Kim Cúc( bút danh “Hoàng Hoa thôn nữ”)-HMT sinh 22/9/1912 Nhâm tý.HTKC sinh 5/12/1913 Quí sửu- trai hơn 1 đẹp đôi, nhưng Nhâm/quí thì thôi rồi…Số là mùa hè năm 1939 Cúc nể tình Người em họ ( Hoàng Ngâm- bạn thân của Tử) khuyên ” Chị nên viết thư thăm Tử(mặc dù không yêu) hãy an ủi 1 tâm hồn đau khổ” thay vào viết thư, Cúc đã gửi 1 bức ảnh chụp phong cảnh nhỏ vừa bằng cái Carte Visite. Trong ảnh có mây có nước,có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò,có mấy khóm tre ( không có cau),có cả ảnh ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước…Cúc viết mấy lời thăm sức khỏe sau bức ảnh mà không ký tên,rồi nhờ Ngâm trao cho Tử.Sau đó 1 tháng Cúc nhận được 1 bì thư trong đó có bài thơ ” Ở đây thôn Vỹ Giạ” cũng do Ngâm gửi về cho chị.Đây là một sự “không ngờ” về sức tưởng tượng phi thường của Thi nhân quá khác thường: đã biến bức ảnh thành hình ảnh Bến sông Thôn Vỹ Giạ lúc hừng đông hay đêm trăng, trong đó có cả Cô gái “lá trúc che ngang …” làm người ta liên tưởng là cô gái đó mặc áo trắng vì câu “áo em trắng quá nhìn không ra” rất ảo huyền viễn mộng…Bài thơ Tử ký 11/1939.

Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ

Sao anh không về chơi thôn vỹ ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

 

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?

 

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Bài thơ mở đầu như “thác” lời của Cúc gửi Tử, rồi là niềm tâm sự của thi nhân với ” ý trung nhân” – “mặc Nàng không yêu, ta cứ yêu” Nàng Thơ của lòng ta?. Bài thơ có 2 cái đáng chú ý:

*-1,Nguyên tác “Ở đây thôn Vỹ Giạ”. Chữ”Ở” Thi sĩ dùng có chủ ý nhằm nhấn mạnh cái tên Thôn Vỹ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh” (tình yêu với Cúc chỉ là ảo, sương khói mà thôi…).

*-2, Về Cô gái trong “Lá trúc che ngang mặt chữ Điền” đó là cô gái do sức tưởng tượng của Thi nhân mà hiện ra thôi “…Nay ta xem lai di ảnh Nhà Giáo- cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989) thì đúng là Cúc có khuôn mặt chữ ĐIỀN phúc hậu…chứ không phải như ai đó (Thang Ngọc Pho và V,V…) quả quyết đó là chữ ĐIỀN- Hán tự đắp nổi ở “mặt trước phía trên cổng các nhà Quí tộc Huế ” hay ở các tấm bình phong trước nhà…

Cảm thương về chàng Thi sĩ tài hoa từng thầm yêu trộm nhớ mình,nay đã khuất…”Hoàng Hoa thôn nữ” đã âm thầm viết bài thơ ( và ở vậy suốt đời ?) :

ĐỀ TẶNG HƯƠNG HỒN ANH HÀN MẠC TỬ

Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ

Thầm giữ trong lòng một ý thơ

Cũng biết cách xa ngoài vạn dặm

Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ

 

Một mình một cõi với trời mây

Với cả đau thương với hận này

Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ

Tiếng vang muôn thuở vẫn còn đây

 

Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa

Hoa biết cùng ai thổ lộ ra

Tuy sống giữa cảnh đời náo nhiệt

Tình ai ai vẫn cứ đậm đà.

Đầu xuân Tân tỵ-1941

Hoàng Hoa

NK tôi vốn yêu thơ Hàn Mạc Tử từ khi còn đi học, mùa hè năm 2006 vào Huế đến Thôn Vỹ Giạ tìm dấu Người xưa, cảm tác :

HỌA THƠ THÔN VỸ

Đã bao người họa Thơ Thôn Vỹ ?

Dù mới ngang qua đã chạnh lòng

Thoáng nét thôn xưa chừng bỡ ngỡ

Gieo chút buồn xưa để bâng khuâng

 

Sao không về lại…ai kia nhỉ ?

Cứ như Lá trúc chắn nẻo về

Thà cứ là mây theo lối gió

Xin mãi là Trăng trong mộng mê

 

Ừ,sao ta không về Thôn Vỹ ?

Tìm dấu Người xưa để ngẩn ngơ

Tình như sương khói mờ nhân ảnh

Để vẩn vơ hoài Thơ với Thơ.

Huế 6 - 2006

Nguyễn Khôi

 

Bài 22: VỀ CÂU THƠ “MỸ NHÂN TỰ CỔ NHƯ DANH TƯỚNG”

 

Giới làm thơ ngày trước ai mà chả thuộc 2 câu thơ cổ:

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

tạm dịch:

(Người đẹp từ xưa như tướng giỏi

Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu )

Còn xuất xứ 2 câu này ở đâu? (Đường thi,Tống thi ư ? chủ nhân của 2 câu thơ bất hủ đó là của ai ?… thì để còn “hỏi Thầỳ”, tra cứu kho tàng chữ nghĩa Trung Hoa đã? Rồi ậm ừ qua vài trăm năm… có dư…

Thế rồi,có một “con mọt sách” ĐỤC xuyên qua cuốn ”Tùy Viên thi thoại” của Viên Mai (đời Thanh) gồm 16 quyển và 19 quyển “bổ di”- tổng cộng là 26 quyển, dịch ra tiếng Việt dày ngót 1000 trang, khổ 16×24… đó là một thứ “tùy bút” nhàn đàm về Thơ, với quan điểm:

Chịu khó tìm Thơ sẽ có Thơ

Tâm linh điểm ấy chính Thầy ta

mà điều kiện cần có của Người làm thơ là 3 chữ “tài, học và thức (kiến thức)- thiếu 1 đều không được !

Tùy Viên tiên sinh kể rằng: Người bạn (của ta) là Quan Thị độc (cỡ Viện trưởng-cố vấn cho vua) họ Đông có việc phải rời Kinh thành đi Thiên Tân công cán,qua nhà họ Tra, gặp Tiến sĩ Đồng Duệ, vị Tiến sĩ này có nói rằng:

- Thân mẫu Triệu phu nhân, không may sớm là góa phụ, đã ở vậy thờ phụ thân (không tái giá) nuôi dạy con cái nên người, lại hay chữ nghiã,thường làm Thơ… có bài tuyệt cú “cúng ông Táo” như sau:

Tái bái Đông Trù Tư mệnh thần

Liêu tương thanh thủy tiễn hành tôn

Niên niên phá ốc đa trần thổ

Tư nhứ phu vong tử ấu nhân

Tạm dịch:

Kính xin thần bếp Đông Trù

dâng ngài chén nước tiễn đưa cầu trời

Bao năm phá(nhà) cửa bụi rồi

Hãy thương mẹ góa con côi một bầy.

Nhân đó, vị Tiến sĩ này kể thêm: ”Chú của tiểu nhân, có làm bài “Điệu vong cơ”, khóc Người thiếp (vợ lẽ) qua đời, nhiều người họa lại…trong đó có bài của Người thiếp họ Đông,tên là Diễm Tuyết, thì thật là tuyệt diệu. 2 câu kết của bài rằng :

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

2 câu này,có tứ thơ khá gần với câu sau đây của thi sĩ Lạp Điền (đời Tống) :

Bạch phát tòng vô đáo mỹ nhân

(mái đầu tóc bạc từ nay trở đi không bao giờ đến với người đẹp cả…)

Lời bàn thêm: Thật đúng như Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nói:

Văn chương là của chung thiên hạ

Ý mỗi người mỗi khác

Phân tích thì được

Chứ không nên chê mắng.

Còn Andre’ Che’nier (Pháp) thì viết:

Nghệ thuật chỉ làm nên bài thơ

Còn trái tim mới là Thi sĩ

Ở ta,năm 1934 Thi sĩ Leiba (Lê văn Bái) đã tâm đắc:

Người đẹp vẫn thường hay chết yểu

Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai?

Thế mới biết tài tử giai nhân xưa nay đều có chung một một “nỗi sầu nghìn thu ” rồi cùng làm thơ là vậy?

Góc Thành Nam Hà Nội -25-8-2010

       Nguyễn Khôi- thân tặng…

 

Bài 23: HOÀNG HẠC LÂU – BA BẢN DỊCH ĐỘC ĐÁO

 

Trong ” Toàn Đường Thi” ( gồm42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường)-Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là “Hoàng Hạc Lâu” cuả Thôi Hiệu ?

“Hoàng Hạc Lâu” thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu ( Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ).Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc,rượu chè “của lạ” (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy,đến cuối đờiphong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi,sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm ,Bão Chiếu…Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ là vậy);Bạn ông nói đùa ” không phải Bác bệnh đến như vậy,bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy thôi” !

Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc,vốn là “tửu quán” -đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ ” Giang Nam hảo “nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ…Theo sách ” Cổ đại thi tứ cố sự” thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế : thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, “Tình Xuyên Các” bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày…

Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả “Lầu”, còn 3 câu kia đều tả “người xưa”… trong đó câu 1 là tả “người xưa”, câu 3 là nghĩ “người xưa”, câu 4 là ngóng “người xưa”, cứ như phớt lờ không nhắc gì đến “lầu”.Câu 5-8 tiền giải là tả “người xưa”, hậu giải tả “người nay”, tuyệt nhiên không tả đến “lầu”… Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi “hương quan hà xứ thị” (ở nơi này) với cây thì “lịch lịch” (in rõ), bãi thì “thê thê” (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng “hương quan” là không biết “hà xứ” (nơi nào).Rồi với hai chữ “nhật mộ” (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để “đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn.”

Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ “trắc” trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? – để nhấn mạnh cái ý “tiền bất kiến cổ nhân”

– “nhất khứ” là một đi – “bất phục phản” là không trở lại… câu này nói lên cái lẽ vô thường của mọi người, mọi việc.

Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa

Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu “thôi miên” ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ “dịch” nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:

1- Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục

       (Nam Phong tạp chí – năm 1923)

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,

Ở đây chi những lầu hạc trơ.

Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,

Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.

Sông bạc Hán Dương cây xát xát,

Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.

Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?

Mây nước trên sông khách thẫn thờ.

Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

2. Bản dịch của Tản Đà

In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937

Đay là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?

3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,

Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,

Trắng một màu mây vạn vạn đời.

Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,

Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.

Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?

Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

Như ta đã biết : Thôi HIệu (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh “trắc” liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch Vân thiên tải không du du

Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi…

Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Trắng một màu mây vạn vạn đời

Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối “đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động”. Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: “Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế.”

Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:

– Yên ba giang thượng sử nhân sầu

– Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:

– Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Nếu đưa chữ “hạc” lên đầu câu:

– Hạc vàng tung cánh đi đi mãi

Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế – và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010

Nguyễn Khôi – Cẩn bút

 

 Bài 24: LÝ BẠCH VỚI ANH VŨ CHÂU

 

Lý Bạch (701-762), người  thơ số 1 đời Đường, làm thơ tới mức xuất thần nhập hóa, người đời gọi là “Thi tiên”. Thơ Lý Bạch thường giống như mưa và gió tranh nhau bay, rồng cá biến đổi trăm lần, lại như sông lớn không có gió mà sóng tự gào, mây trắng trên không thay đổi theo gió, đúng là có thể nói quái dị lớn lao- đại danh bao trùm vũ trụ là vậy. Đỉnh cao Đời và Thơ của ông gắn với thời Thịnh Đường (Vua Đường Huyền Tông),sau loạn An- Sử (755-761) sang đời Vua Túc Tông, vì dính vào vụ Vĩnh vương Lân- năm 758 ông bị biếm trích tới Dạ Lang (Quý Châu). Trên đường đi đày qua Bãi Vẹt (Anh Vũ Châu)  bên bờ bắc sông Trường Giang, gần Hán Dương (Hà Bắc) thời Tam Quốc đây thuộc Đông Ngô nên khúc sông này gọi “Ngô giang”…Đây chính là nơi cai trị của Thái thú Giang Hạ “Hoàng Tổ”, con trai trưởng ông ta là “Xạ” làm Thái thú Chương Lăng, một hôm bày tiệc trên bãi sông; có người dâng chim Anh Vũ (Vẹt), Thái thú Xạ đưa lồng chim cho danh sĩ Nễ Hành và nói ” -xin tiên sinh làm bài Phú tả cho”- Nễ Hành hạ bút viết liền một mạch thành bài Phú, không ai thêm bớt được chữ nào, ngôn ngữ vô cùng diễm lệ. Sau Nễ Hành bị Hoàng Tổ giết, từ đó có tên “Anh Vũ Châu” để ghi lại sự tích bi tráng trên ?

 Lý trích tiên, sau cái lần “đăng Hoàng Hạc Lâu” thấy thơ Thôi Hiệu ở trên đầu, rồi “đạo bất đắc” cúi đầu ra đi trong lòng còn vương vấn ” bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ thơm” thì nay lại đứng giữa ngay cái “phương thảo thê thê” này, nhớ tích xưa, đang cảnh đi đày, Thi sĩ cảm khái hạ bút :

        Anh Vũ lai qua Ngô giang thủy

        Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh

        Anh Vũ tây phi Lũng Sơn khứ

        Phương Châu chi thụ hà thanh thanh

        Yên khai lan diệp hương phong khởi

       Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh

       Thiên khách thử thì đồ cực mục

       Trường khâu cô nguyệt hướng thùy minh

                     -Anh Vũ Châu

  Dịch :   BÃI ANH VŨ

         Xưa chim Anh Vũ đến Trường Giang

         Anh Vũ đến nay bãi nổi danh

         Anh Vũ về tây , qua núi Lũng

         Bãi thơm mượt lá sao xanh xanh

         Khói tan, Lan hiện gió thơm nổi

         Đào nở bờ liền sóng gấm lan

         Khách biếm  trông hoài non nước thẳm

        Vì ai trăng sáng mãi mênh mang

                          (Trần Văn Nhĩ)

“Anh Vũ Châu” không phải là tuyệt tác của Lý Bạch, nó xếp sau Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với cái duyên nợ cùng “phá luật thi” : câu 3 và câu 4 trong nguyên bản “không đối” về ý và từ. Theo Kim Thánh Thán thì :

 (1-4) Tiền Giải (đi từ không đối đến đối) giải này hẳn là mô phỏng Hoàng Hạc Lâu, nhưng chữ “khứ” lại lạc đến cuối câu 3, đó là “một con cua không giống một con cua vậy, nhất giải như nhất giải”.Nhờ được 7 chữ của câu “Phương châu” mà chợt nổi lên mạnh mẽ, nếu không thế thì chỉ như một ông lão hèn cất bút ngâm vang, mong sao khỏi đói.

Lý tiên sinh anh hùng khi mà người thường không tự tiếc làm như vậy-“phương thảo chi thụ hà thanh thanh” chỉ với 7 chữ đó mà làm cho ngoời ta lòng mắt mờ mịt biết bao, không xét đến khói, đến như vậy là hết nước .

 (5-8) Hậu giải :(đối đến không đối) : Các câu 5 -6,”lan điệp…phong khởi”,”đào hoa lãng sinh”, chính là 2 chữ “thử thời” (lúc này) trong “thử thời cực mục” vậy. Chữ “phong”, chữ “lãng” nói rằng : ta muốn đoạt thuyền căng buồm, hô gió phá sóng thẳng lên Kinh đô Tràng An (nơi Vua ở, hi vọng được trọng dụng ) bức xúc lắm rồi, ta không thẻ chờ đợi 1 khắc( giờ) nào được nữa (ảo mộng ), thế nhưng “mây nổi kín trời, trăng sáng không soi (cô nguyệt )-đó là thực tại cô độc phũ phàng, vô vọng, thì rốt cuộc không biết làm sao ? Bi kịch là tuy”oán” mà không dám “chê” bai Thánh chủ (nhà Vua đã sai chém đầu Lý Bạch vì tội đi làm mưu sĩ cho Vĩnh vương Lân làm phản triều đình ! ?  -Sau thấy oan đã ân xá) cho nên mới hỏi”trường châu cô nguyệt”(trăng lẻ bãi dài )..

  Chao ôi, Thơ là Người, thơ là Đời…là thân phận con người bị sóng gió cuộc đời dập vùi, nên dù lãng mạn như Lý tiên sinh thì vẫn phải chịu cái đau nhân thế phũ phàng,chính trong cái cảnh bi phẫn ấy Nhà thơ đã viết “Anh Vũ Châu” để gửi gắm niềm tâm sự ” với cái sầu nghìn thu” làm sao mà giết được ? !

           Góc Thành Nam Hà Nội 26-3-2011

                        Nguyễn Khôi

 

Bài 25:  ĐỌC LẠI BÀI THƠ LÝ BẠCH: “TẶNG UÔNG LUÂN”

 

Tương truyền đời nhà Đường, vào năm Thiên Bảo thứ 13 (754) có Uông Luân là một Hào sĩ ở Kinh Xuyên, tuy tài năng không thể so sánh với Lý Bạch, nhưng ông cũng là dòng dõi hào kiệt, đã từng làm Huyện Lệnh ở Kinh huyện, rất thích giao du với các danh sĩ, hết sức mến mộ Lý Bạch: Nghe nói Lý Bạch sắp đi chơi qua đây, Uông Luân bèn gửi thư đón mời và trong thư có nói dối rằng:”Tiên sinh thích ngao du chăng?- ở đất này có vạn nhà hàng rượu”…Lý Bạch vui vẻ mà đến,  Uông Luân bèn nói thật rằng :”Đào Hoa đây là tên một cái đầm (đàm),thật không có hoa đào gị cả. Vạn nhà đây chỉ có “tửu điếm họ Vạn”, chứ thật không có hàng vạn quán rượu nào đâu”…Lý thi nhân nghe xong bật cười to, ở lại chơi vài ngày. Sau đó, Uông Luân tặng 8 con ngựa và 10 cuộn gấm đẹp rồi đích thân tiễn đưa. Lý Bạch cảm vì chân thành nên hạ bút xuất thần bài “tuyệt cú Đào hoa đàm đề”:

         TẶNG UÔNG LUÂN

    Lý Bạch thừa chu tương dục hành

   Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh

   Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích

   Bất cập Uông Luân tống ngã tình .

 Dịch :

      Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền

Trên bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca

      Nước đầm nghìn thước Đào Hoa

Uông Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều

                    -Tản Đà (1938)

Lý Bạch thuyền chèo sắp vượt ra

Trên bờ lanh lảnh tiếng thanh ca

Đầm Đào thăm thẳm sâu nghìn thước

Khôn đọ tình Uông tiễn tống ta.

                     -Trúc Khê (trước 1945)

BÌNH :Đây là sự cảm kích của Lý Bạch đối với Uông Luân lúc chia tay, bài thơ gây xúc động lòng người.

-Câu 1; tác giả tự nói về mình. 3 chữ “tương dục hành” là diễn tả cảnh bịn rịn tiễn biệt…

-Câu 2: chữ “hốt” là sự “chuyển” sang động thái lên đường, thật là có “thần” (không tả mình mà tả chủ nhân với cử chỉ “đạp ca”- một lối hát dân gian nhiều người cùng dang tay nhau và giậm chân làm nhịp – như kiểu “xòe Thái” hay Lăm Vông Lào ?)

 Chữ “thanh” là chỉ tác giả (người được tiễn) nghe thấy…cùng lúc lên thuyền (thừa chu).

-Câu 3: bút lực của Thi hào đã “chuyển” vào cõi trời đất (đàm thủy).

-Câu 4: là bút pháp đảo ngược lấy cái sâu của đầm Đào Hoa ví với cái thâm tình của Uông Luân.

     Toàn bài nổi bật 2 chữ “tương” và “hốt”, đó là dạng “nhãn tự” (chữ mắt) như có thần tỏa sáng cả bài thơ.

      Truyện Sử còn kể tiếp : đến đời nhà Thanh (Khang Hi thứ 55 ) trở đi, Nhà Thơ Viên Mai (1716-1797) đã chép :”Ngày nay thì đầm Đào Hoa đã cạn, đường qua đây đã tắc nghẽn, Nhà thơ Trương Tĩnh Trai đã cảm thán rằng (xin chép băn dịch) :

      Rừng vắng ve chuyền chiếc lá rơi

      Đào Hoa nẻo ấy dễ tìm thôi

      Lạ gì tình bạn nay hời hợt

      Đầm cũ xem ra cạn khác rồi.

                   -Trương Đình Chi (dịch)

  Chao ôi, “tình bạn ngày nay đã khác xưa/ nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa”…Đọc lại thơ Lý Bạch, ngẫm thời thế mà buồn vui lẫn lộn thật  khó tả làm sao ?

              Góc Thành Nam Hà Nội 17-9-2006

                         Nguyễn Khôi

 

Bài 26: ĐỌC LẠI “TUYỆT CÚ” CỦA ĐỖ PHỦ

 

“Tuyệt cú” là tên một thể loại Thơ cổ Trung Hoa có từ thời Lục Triều (439-581), nhưng phải đến đời Đường, đặc biệt là dưới triều Khai Nguyên -Thiên Bảo (712-756) Đường Huyền Tông thì Tuyệt cú Đường thi mới đạt đỉnh cao…”tuyệt” ở đây có nghĩa là “dứt” dùng để đối lập với chữ “liên” (=liền).Tuyệt cú gồm các loại thơ ngũ ngôn, lục ngôn,thất ngôn 4 câu tạo thành 1 bài, dùng vần bằng hoặc vần trắc.

Đỗ Phủ có 4 bài Tuyệt cú, chọn 1 bài :

Lưỡng cá Hoàng Ly minh thúy liễu,

Nhất hàng Bạch lộ thướng thanh thiên;

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.

dịch nghĩa :

 Hai con chim Oanh vàng kêu ( hót ) trong cụm liễu xanh,

 một hàng cò trắng bay trên lưng chừng trời;

 Trước song  ngậm tuyết nghìn thu ở núi Tây Lĩnh,(1)

 Ngoài cửa thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đậu.(2)

 Đây là bài “Tuyệt Cú” Đỗ Phủ làm năm 764, lúc trở lại Thảo Đường ở Thành Đô ( Thục). 4 câu đều đối. Mỗi câu 1 cảnh: -(1) chỉ núi Dàn Sơn phía tây Thành Đô,tuyết phủ quanh năm không tan, câu này có nghĩa là: cửa sổ ngó ra núi,như ngậm lấy núi cho nên nói ” song hàm”.

-(2) Sông Thục chảy về phía đông, từ Thành Đô lên thuyền có thể đến đất Đông Ngô ( Giang Tô ): Đỗ Phủ có ý muốn rời Thục đi Ngô.

*-1-Bản dịch của Tản Đà :

Hai cái Oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng cò trắng vút trời xanh;

Nghìn năm tuyết núi song in sắc,

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.

Đây là bản dịch ĐẸP…nhưng Tản Đà “tác” mạnh hơn “dịch” ? Dịch chữ “cá” là”cái”, “minh” là “kêu” không sai,nhưng ít vẻ thơ; câu 3 đưa thêm “sắc” không có trong nguyên bản.Đặc biệt câu 4 đưa thêm vào “rập rình” là hoàn toàn gượng gạo, nhầm vần với chữ “xanh” ở câu 2 ?

*-2- Bản dịch của Tương Như :

Liễu xanh hót cặp Oanh vàng,

Trới lam trắng điểm một hàng cò bay;

Song lồng mái tuyết non Tây,

Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài.

 Đây là một dạng “diễn Nôm” theo gót Tố Như tiên sinh khi sáng tác Truyện Kiều…phải nói là “đẹp mượt” tuyệt tác…nhưng hơi xa nguyên tác ( Việt hóa đến cao độ ) làm giảm mất cái thần khí cao sang -đặc trưng về thể loại Tuyệt Cú Đường thi .

*-3- Bản dịch của Lê Kim Giao ( Nhà thơ Hà Nội ) :

Liễu biếc Oanh vàng đôi chiếc hót,

Trời xanh cò trắng một hàng lên;

Song in Tây Lĩnh nghìn thu tuyết;

Cửa đậu Đông Ngô vạn dặm thuyền.

Ai đã từng vào dầm mình trên bãi biển Lăng Cô (làng cò Thừa Thiên-Huế) 1 trong 3 bãi biển đẹp nhất Việt Nam, rồi chợt trông lên : chiều tà hắt nắng hè, xa xa một đàn cò trắng bay lên ngang trời in trên  nền dãy núi Hải Vân đệ nhất hùng quan xanh thẳm…tai nghe đôi hồi tiến Oanh hót trong các bụi Liễu nơi Resort bên bờ, ngoài khơi một chút là các con thuyền về đậu dập dờn trên sóng biẻn xanh…bỗng nhiên trong đầu ta ( Thi nhân) vang lên bài Tuỵêt Cú của Đỗ Phủ với bản dịch của Lê Kim Giao thì quả là tuyệt diệu như thưởng thức một bữa tiệc tâm hồn ( thơ) đầy ý vị…một bản dịch mới lạ ? !

 Cái dụng ý “thi trung hữu họa” dùng MÀU TRÊN MÀU mà tác giả và dịch giả đồng cảm đó là “màu xanh của trời (xa), làm nền cho màu xanh của Liễu (gần), màu trắng cuă tuyết (xa) với màu trắng của cò (gần) mà chính do độ co giãn của tầm mắt(nhìn) xa/gần nên ta hoàn toàn tưởng tượng ra độ đậm nhạt ấy, rồi thú vị biết bao khi ta lại thấy màu vàng của đôi chim Hoàng Ly đan xen vào làm bức tranh thành tuyệt mỹ.”

  “Tuyệt cú ” của Đỗ Phủ là viên ngọc trong Đường thi, bản dịch của Lê Kim Giao sau 1000 năm vấn rất tri âm tri kỷ, tài hoa xảo diệu…âu cũng là cái độc đáo xuất thần của chàng Công tử Hà Thành- thi sĩ Lê Kim Giao vậy chăng ?

                      Góc Thành Nam Hà Nội – 3/10/2010

                                 Nguyễn Khôi – cẩn bút…

 

Bài 27: ĐỌC LẠI THƠ VIÊN MAI: “LẬP THÂN TỐI TIỂU THỊ VĂN CHƯƠNG”

 

Xưa & Nay ở Việt Nam ta trong giới làm thơ vẫn truyền tụng 2 câu thơ của Viên Mai:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch

Lập thân tối hạ thị văn chương

(mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc,

Lật thân thấp(hèn) nhất ấy văn chương)

-trúc bạch=tre và lụa,người xưa chép Sử(thơ) bằng thẻ tre hoặc lụa,khi chưa có giấy viết,nên gọi Sử là ” thanh sử”(Sử xanh).

Nguyên tác của 2 câu thơ đó theo Viên Mai trong “Tùy Viên thi thoại” quyển XIV-đoạn 66 được Trương Đình Chi dịch in ở thoại 449,trang 662 nxb VN tp HCM thì :”Tôi lúc còn bé, trong một bài thơ “vịnh hoài”(nói lòng mong muốn) có câu rằng:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch

Lập thân tối tiểu thị văn chương

Giải : mỗi bữa ăn không quên nghĩ đến tre lụa ( sử xanh),

Xây dựng danh tiếng nhỏ bé nhất là làm văn chương.

Dịch: Mỗi lúc hằng mong ghi Sử sách,

Lập thân nhỏ nhất ấy văn chương.

Viên Mai (1716-1797) quê Tiền Đường (Hàng Châu) đỗ Tiến sĩ và làm Quan Tri huyện. Năm 40 tuổi cáo quan về ở ẩn trên núi Tiểu Thương Sơn ngồi viết “Tùy Viên thi thoại” (nói truyện thơ ở vườn Tùy) và “Tử bất ngữ”(cái gì cụ Khổng chẳng nói thì ta nói )…

Cái thú vị, tai quái của văn chương là “ẩn dụ”- ý tại ngôn ngoại vận dụng vào tùy thời thế, hoàn cảnh mà “ám” vào với thân phận của người thưởng thức …mà nói thế nào cũng được? từ tốt sang xấu, từ “cực” nọ sang cực kia vẫn chỉ là tác phẩm ấy, câu thơ ấy!

Câu ” lập thân tối tiểu…” có người nói là : Ông khuyên chúng ta nên đi nghề võ, nghề buôn (kẻ cả buôn Vua) gì đấy, chứ đừng nên học hành văn chương thi đỗ dấn thân vào chốn Quan trường ( ở Việt Nam ta tấm gương tày liếp là gia đinh Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ- Ngô Thì Nhậm,cánh Nhân Văn Giai Phẩm…).Theo thiển ý của NK : hiểu thế thì e đơn giản quá? Viên Mai thâm Nho hơn nhiều. Lập ngôn là sáng tác văn chương , “tối tiểu” ở đây là đầy ý khinh miệt. Ý của Viên Mai là ám chỉ những kẻ làm nên Quan chức quyền nghiêng thiên hạ là nhờ vài ba cuốn sách xu thời, dăm báy bài thơ”nịnh”Đức Vua… rồi cứ thế mà hưởng trọn đời (ăn hại tiền dân đóng thuế)?!

Ở Trung Hoa xưa & nay…cứ sau một vụ án Văn chương là khiến cho bao người cầm bút run sợ, tự gác bút hoặc có viết thì tránh xa sự thật, làm trò “Phu Chữ”, chạy vào thơ “tình yêu”(già cốc ra rồi vẫn còn “anh anh /em em” cứ như thuở mới đi tìm “lá diêu bông” ấy!)…Yên thân hơn cả là “di chúc ” cho con cháu chỉ sống bằng nghề làm ruộng hoặc đi buôn, không cả thèm đi học và tránh xa chốn Quan trường?!

Ô hô, i hi…Viên Mai quả sâu sắc là vậy!

             

  (Trích ” Bắc Ninh Thi Thoại”)

Góc Thành Nam Hà Nội, 5 tháng 10 năm 2011.

  NGUYỄN  KHÔI

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét