Nhà nghiên cứu Hán Nôm Đỗ Hữu Trác - Tác giả bài viết này- Người cao bên phải
Chùa
Viên Quang (Viên Quang Tự - 圓光寺) hiện toạ lạc tại Làng Nghĩa Xá – Xã Xuân Ninh – Huyện Xuân
Trường – Tỉnh
1.
Hương Giao Thuỷ - Vạn Giao Thuỷ:
Thời
Lý nước ta chưa có đê, vùng đồng bằng Bắc Bộ là ven biển, cửa sông của hai hệ
thống sông Hồng, sông Thái Bình. Vùng ấy chủ yếu là những bãi bồi, cồn, doi đất
cao ráo, nổi về mùa khô và ngập nước về mùa lũ. Chằng chịt trên bề mặt các doi,
bãi, gò ấy là hệ thống sông, lạch, khe nước. Giao thông đi lại, xê dịch của dân
ta chủ yếu là dựa vào dòng nước, dùng thuyền, bè mảng. Thời ấy đã có doi đất
nổi lớn ở phía Đông Nam Thành phố
Thời Lý, Chùa Viên Quang thoạt kỳ thuỷ được xây dựng ở Hương Giao Thuỷ, mà cụ
thể hơn nữa là ở bãi ven sông – Vạn Giao Thuỷ thuộc Hương Giao Thuỷ - nơi tụ
tập sinh sống cư ngụ, “cắm sào lập vạn” của dân thuyền chài, đánh cá. Toạ độ cụ
thể của chùa chưa thể nói chính xác, và bây giờ có khảo cổ đào bới khắp cả vùng
ấy lên thì cũng chắc chả còn tìm thấy dấu tích gì do việc lở bồi lũ lụt, nhưng
chắc chắn toạ độ ấy nằm đâu đó phía Đông gần chỗ Xã Tân Thịnh, Quán Nhi (sau
đổi là Quán Các), Thứ Nhất, Bách Tính, Cống Khâm hiện nay. Thậm chí nó có thể
là ở mãi bên tả ngạn sông Hồng nay thuộc địa phận xã Hồng Phong, ven xã Duy
Nhất cũng chưa biết chừng.
Địa
danh “Giao Thuỷ” còn được lưu truyền mãi về sau này, để gọi vùng đất được mở
mang bồi đắp thêm ở vùng đông nam Hương Giao Thuỷ, thuộc hạ lưu, cửa biển của
sông Hồng bao gồm các huyện Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu hiện
nay. Ở đây có hai điểm cần lưu ý (1. Trong chữ Giao Thuỷ - 膠水 thì chữ GIAO = 膠 ở đây không phải là gắn với,
giao tiếp, tiếp xúc mà nó có nghĩa là “dính”, là “keo”, là “nhơm nhớp” - đặc
trưng của nước biển, nước lợ, không nhẹ, không thanh thoát như nước ngọt, và 2.
Hương Giao Thuỷ - Huyện Giao Thuỷ xưa rất rộng, phân biệt với Huyện Giao Thuỷ
nay rất nhỏ hẹp (mới được tách riêng với huyện Xuân Trường, phân định địa giới
sau năm 1945, bao bọc bởi biển, sông Hồng và sông Sò.).
Ở
các bản đồ thời cuối thế kỷ 19 trở về trước vẫn hiện diện địa danh Giao Thuỷ
trỏ vùng đất chính, cổ của nó là ở chỗ Tân Thịnh – Từ Quán – Bát Dương – Đô
Quan – Cổ Lễ - Phủ Xuân Trường – Tương Nam.
Thời
Lý, Đạo Phật là “quốc giáo”, các bậc cao tăng, Thiền Tổ, Thánh Tăng được tôn
phong là “Quốc Sư”. Bên cạnh việc xây dựng “Hành cung” là nơi “dã ngoại”, “tuần
du” của Vua và các đại thần, nhà vua xuất tiền công khố ra để xây dựng những
ngôi chùa lớn để các “quốc sư” tu hành, trụ trì. Đó là chùa Nghiêm Quang (tiền
thân của chùa Thần Quang – chùa Keo Hành Thiện và chùa Keo Thái Bình sau này)
và chùa Viên Quang (với tên gọi ban đầu là Diên Phúc).
Theo
nội dung mô tả trong tấm bia “Thiên Phù Duệ Vũ tam niên” (1122) hiện còn lưu
giữ ở chùa Viên Quang thì chùa quay hướng Tây, sau lưng là bể biếc sông dài,
trước mặt là cánh đồng rộng lớn, phía tây nam có tháp cao vời vợi, trước cửa có
con đường “thiên lý”, bên phải có chùa cổ “Long Kiều”, bên trái có “Hành cung”
Vua Lý. Như vậy, tính từ thượng nguồn sông Hồng, ta có chùa Cổ Long Kiều, tiếp
đến là chùa Viên Quang, sau nữa là Hành Cung (như một dạng “kinh đô” thứ 2) với
chùa Nghiêm Quang.
(“Phía
trước mẫu nam, muôn khoảnh mây vàng giãi đất; phía sau sông lớn, nghìn trùng
sóng biếc liền trời.
Bên tả hành cung đất Hải, thuế cày đều giảm nhẹ xuân thu; bên hữu chùa cổ Long
Kiều, chuông kệ thảy lắng nghe sớm tối.” - Đỗ Văn Hỷ dịch, trang 454, Sách Thơ
văn Lý Trần, Nxb Văn học, 1977.).
Cuối
thời Trần, nhà nước chủ trương đắp đê dọc các triền sông lớn để ngăn lũ thượng
nguồn, Vạn Giao Thuỷ nằm ngoài đê, mép nước. Khi có đê, lòng sông mỗi ngày một
nâng cao lên do phù sa lắng đọng, mực nước dâng cũng cao thêm lên rất nhiều.
Cộng thêm với việc do dòng chảy biến thiên, lở bồi mạnh khi bị hạn chế bằng đê
hai bên tả hữu, nên đến thời Lê trung hưng, những năm 1550 – 1650 vùng Vạn Giao
Thuỷ bên hữu ngạn bị lở sạt, bồi sang bên tả ngạn và hạ du.
Chùa
cổ Long Kiều, có lẽ là được xây dựng từ thời Đinh, nay không còn dấu tích, chắc
cũng bị lụt trôi mất từ lâu. Hành Cung vua Lý về sau, qua thời Trần cũng hoang
phế và lụt lở tan hoang vào thời Lê trung hưng (1611 – Tân Hợi). Ở Hành Cung
nhà Lý có chùa Nghiêm Quang (Thần Quang) sau cũng tan tành, dân Hành Cung “dạt”
về Hành Thiện và Dũng Nhuệ, dựng lên hai chùa “hậu thân của chùa Thần Quang” là
Keo Hành Thiện và Keo Thái Bình.
Khi
xây dựng chùa Viên Quang, nhà vua Lý cấp cho chùa ba trăm mẫu ruộng để thu hoa
lợi làm hương oản cúng Phật, nuôi sư. Số ruộng ấy, có một khoảnh ở xứ Liêu
Thượng (nay thuộc địa phận bãi ven sông Hồng của xã Xuân Tân huyện Xuân Trường,
hiện vẫn còn thôn Liêu Đông với ngôi đền Cửa Cát nổi tiếng linh thiêng, địa
danh Liêu Thượng vẫn hiện diện trong bản đồ người Pháp vẽ cuối thế kỷ 19). Thời
Lý, rồi tiếp theo đến thời Trần các Vua, quan, hoàng thân quốc thích cũng như
thiện tín thập phương cúng rất nhiều ruộng vào chùa. Những khoảnh ruộng ấy nằm
rải rác ở các xã lân cận chùa như Nam Hà, Cổ Chử, Cổ Nông, Đô Quan, Từ Quán,
Quán Nhi (Quán Các), Mỹ Lộc, Vụ Bản, …Thậm chí có cả khoảnh ruộng ở xã Hạc Châu
huyện Vũ Tiên nằm bên đối ngạn sông Hồng (hiện nay) cũng được công chúa Tiểu
Quân mua cúng vào chùa. Trước đó, ngay khi mới xây dựng, Vua Lý Thái tông - Văn
Hoàng đế và Trang Từ Hoàng Thái hậu Đoàn thị Ngọc Quất đã cúng vào chùa một
khoảnh ruộng 100 mẫu ở xứ đồng Triền Đồng, xã An La, huyện Diên Hà nằm trên
thượng nguồn sông Hồng của chùa Viên Quang.
Đặc
biệt, có một khoảnh ruộng ở xứ đồng Bát Dương (八陽), xã Từ Quán (詞舘), huyện Giao Thuỷ cộng là 17 mẫu
1 sào 10 thước được cúng vào chùa từ triều đại trước (Lý, Trần). Tôi nhấn mạnh
điều này là để chúng ta dễ hình dung việc sau đó (vào thời Lê trung hưng), khoảnh
đất này là nơi ngôi chùa “thiên di” tới ! Xứ đồng này, nay (2020) thuộc địa
phận thôn Từ Quán, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực và có một phần đã nằm dưới lòng
sông Hồng và bồi trúc sang bên tả ngạn thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh Thái
Bình.
Những
năm trước 1990, chưa có nhiều công trình thuỷ điện thượng nguồn sông Hồng, sông
Đà, sông Gâm, vào mùa hè thu, lũ lụt ở hạ lưu sông Hồng rất mạnh. Thời kỳ đó đi
trên bờ đê (ven sông) đoạn dưới Cống Khâm - Bách Tính, mọi người đều có thể
thấy 2 “con bơn”, 2 bãi đất nổi giữa sông Hồng là kết quả của việc xói lở trước
đó bên hữu ngạn, “vật” qua giữa sông để… ”bồi” cho bên tả ngạn (Những “con
bơn”, “bãi giữa” ấy, người xưa gọi là “Phù Sa” mà trên đó cũng có nhiều khoảnh
ruộng được mua tiến cúng vào chùa (khắc ghi ở mặt sau bia 1122)). Ven sông hữu
ngạn, từ chỗ Cống Khâm xuống Cổ Lễ, vòng ra Trực Chính ở phía đông là một “vòng
cung xói lở” với kè đá thường xuyên phải bổ sung gia cố và các điếm canh đê vào
mùa lũ có treo… 2 - 3 sọt (bồ) (2)! Vòng cung xói lở ấy chính là dấu tích
của quá trình trôi, lụt của các chùa Nghiêm Quang, Viên Quang mà chúng ta sẽ
nói ở sau. Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, trước tình hình “xung khích” quá mạnh của
sông Hồng đoạn Cống Khâm – Bách Tính – Đô Quan, triều đình đã cho đắp một con
đê “quai ngược”, vòng từ Cống Khâm sâu vào bên hữu ngạn sông, ven ra đến gần
chỗ đóng lỵ sở Phủ Xuân Trường (Nhương Nam – Tương Nam) thì bắt vào đê cũ tại
điểm trên Cổ Lễ hơn 1 km. Đê “quai ngược” ấy là để phòng lở, vỡ đê ven sông chỗ
Km 11, Km 12, Km 13, Km 14. Ngày trước chỗ giao nhau giữa đê vòng và đê cũ luôn
có dự phòng mấy ngàn mét khối đá, sẵn sàng cho việc kè cừ chống lở hoặc “hàn
khẩu” khi đê vỡ.
2.
Hành Cung:
Tuần
du đất nước, tham quan du lịch, “đổi gió”, tại Hương Giao Thuỷ, trấn Hải Thanh,
Vua Lý có xây dựng “Ly Cung = 離宮”, “Hành Cung = 行宮” … nghĩa là cung điện, triều đình ở bên ngoài thủ đô Thăng Long
(Lý – Trần). Vùng đất có xây dựng Hành Cung đó được gọi là “Hành Cung Trang = 行宮庄”, giống như kiểu “căn nhà ngoại
ô”, “trang trại” của các đại gia thành phố ngày nay về nghỉ dưỡng vào những
ngày cuối tuần hay lễ, tết. Ở đất “Hành Cung” này cũng có xây dựng ngôi chùa
Nghiêm Quang là nơi Vua chúa lễ Phật và Thánh Tổ Không Lộ trụ trì. Hành Cung
trang (“Ly Cung Hải Thanh”) nằm ở bên tả chùa Viên Quang, ở về phía hạ lưu sông
Hồng, cũng đâu đó vùng Tân Thịnh, Thứ Nhất, Từ Quán, Hồng Phong, Duy Nhất… hiện
nay. Đến thời Trần vùng đất miền thượng Xuân Trường hiện nay đã nổi cao hơn,
các vương công, quý tộc nhà Trần khi về Hành Cung đã trồng cấy hoa quả, rau đậu
ở các vùng ruộng bãi lân cận để sử dụng mà hai đặc sản là “kim quất” và rau bắp
cải “chum”. Những sản vật này trước tiên được trồng ở Hành Cung - Hộ Xá, sau
nữa được mở rộng ở các gò bãi thượng Xuân Trường như Ngọc Cục mà sau này hình
thành lên một cái tên rất sang trọng, rất “cung đình” là “Nam Thiên NGỌC Ấp”.
(Danh hiệu của vùng đất đó hiện còn khắc ghi vào bia đá từ cuối thế kỷ 19 lưu ở
chùa Ngọc Tiên – Xuân Hồng – Xuân Trường – Nam Định (“Nam Thiên Ngọc Ấp – Tự
hiệu Anh Quang – Tiền nhân sáng lập – Hậu duệ tân trang – Căn thâm diệp mậu –
Nguyên viễn lưu trường – Vĩnh thuỳ bất hủ - Tuyên thạch chiêu chương”)). Hành
Cung Trang chính là tên gọi “tiền thân”, “tiền danh” của làng Hành Thiện sau
này.
3.
Bát Dương – Từ Quán:
Địa
danh Từ Quán (詞舘), nay vẫn
còn, là thôn Từ Quán xã Tân Thịnh, gần Cống Khâm, Km 11 đường Nam Định – Lạc
Quần. Cuối thời Trần, đầu thời Lê nó là 1 xã của Hương – Huyện Giao Thuỷ, nằm
sát về phía bờ, phía tây của Vạn Giao Thuỷ. Xã – Thôn này có cánh đồng (xứ) Bát
Dương mà trong đó có 17 mẫu 1 sào 10 thước ruộng được cúng vào làm ruộng chùa
Viên Quang từ thời Lý – Trần. Trong thực địa hiện nay và các bản đồ cuối thế kỷ
19 người Pháp vẽ không còn địa danh Bát Dương (với nghĩa đen: Bát Dương = 八陽 = 8 mặt trời, và nghĩa bóng trỏ
vùng đất rộng rãi, cao ráo sáng sủa). Địa danh “Bát Dương – 八陽“ hiện thấy còn lưu ở hai tấm bia
chùa Viên Quang (ở mặt sau tấm bia Thiên Phù Duệ Vũ tam niên - 1122 có lẽ được
khắc vào đầu thời Lê trung hưng kê chi tiết ruộng chùa và ở tấm bia 1886 -1889
ghi chép về việc dời chùa). Tấm bia thời TK 19 chỉ ghi “xứ Bát Dương” khiến
người ta không hiểu được rằng xứ Bát Dương ấy ở đâu. Nhưng mặt sau tấm bia 1122
thì ghi rõ “Xứ Bát Dương – Xã Từ Quán – Huyện Giao Thuỷ” nên người ta đã có thể
định vị được địa danh này trong lịch sử ngôi chùa. (Bản thân kẻ viết những dòng
này cũng đã băn khoăn hoang mang mãi về địa danh “Bát Dương” sau khi “soi” đọc
tấm bia thời Đồng Khánh, và chỉ vỡ oà lên sung sướng khi được đọc những dòng
chữ khắc ở mặt sau úp cận vào tường của tấm bia 1122).
Các
ngôi chùa Nghiêm Quang, Viên Quang với kiến trúc gỗ là chủ yếu, trải qua mấy
trăm năm Lý - Trần cũng đã xuống cấp trầm trọng, thậm chí hoang phế. Thời nhà
Hồ, rồi thời giặc Minh xâm chiếm đô hộ chùa lại càng không được chú trọng tu
bổ. Đầu thời Lê trung hưng, những năm TK 16, đầu thế kỷ 17, đất nước thịnh Nho,
trọng Thánh, Thần. Việc xây chùa tô tượng đúc chuông chủ yếu trông cậy vào lòng
mộ Phật của các ông hoàng bà chúa, các vương công quý tộc hoặc điền chủ lớn.
Hầu hết các ngôi chùa lớn được xây dựng mới hoặc trùng tu nâng cấp vào thời kỳ
này (như chùa Keo Thái Bình, Chùa Keo Hành Thiện, Chùa Thiên Linh – Xuân Thượng
– Xuân Trường – Nam Định) đều gắn với tên tuổi của những tín thí như thế. (3).
Những
năm cuối Thế kỷ 16 lũ lụt triền miên, đê đã đắp từ thời Trần lại được củng cố
vững chắc hơn ở thời Lê Thánh Tông nên sức xói lở của dòng chảy sông Hồng mùa
lũ càng mãnh liệt. Nằm ở ven sông, thượng nguồn của Vạn Giao Thuỷ, chùa Long
Kiều cổ tự đã bị lở trôi mất đầu tiên. Tiếp theo là đến chùa Viên Quang bị đe
doạ lở nền long móng mà… sạt xuống sông Hồng Hà. Đúng vào dịp ấy (năm 1598 và
năm 1605, có ông Quận công Nguyễn Nghĩa Thể cùng vợ là Quận phu nhân Lê thị
Ngọc Lâm và hai người con trai là những quan võ cấp cao, quê ở xã “Thuỵ Thố = 瑞兔” (gọi Nôm na là “Thuỵ Thỏ”)
huyện Giao Thuỷ (nay là xã Tân Thịnh huyện Nam Trực) đã tiến cúng nhiều tiền
của, ruộng nương vào chùa, tu bổ và chế mới các cung thờ của chùa Viên Quang.
(Riêng cá nhân Đỗ Hữu Trác tôi thì cảm nhận và đoán định rằng dưới sự tài trợ chính
của gia đình ông Quận công người làng này, lúc ấy dân làng đã di dời chùa Viên
Quang từ “vạn” – “bãi sông” vào trong đê, vào xứ đồng Bát Dương mà chùa vốn có
sở hữu một khoảnh ruộng rất lớn). Việc di dời chùa từ mép nước sông Hồng, ngoài
đê vào trong đê chỉ thấy được nói đến trong tấm bia 1886 – 1889 hiện lưu ở chùa
Viên Quang (không nói rõ di vào thời điểm nào, do ai chủ trì, chỉ đạo…). Các
kết cấu, các bức trang trí chạm trổ đặc trưng thời Lê trung hưng hiện còn ở
chùa Viên Quang chính là được chế vào dịp tiến cúng, di dời đó. (Khoảng những
năm 1598 – 1605).
Đến
năm Tân Hợi - 1611, lụt lớn, Hành Cung Trang sạt lở tan hoang, chùa Nghiêm
Quang – Thần Quang khi ấy đã khá cũ nát cũng bị lở nền, trôi kèo cột. Dân Hành
Cung dạt về Dũng Nhuệ bên tả và Hộ Xá bên hữu ngạn sông Hồng. Ít năm sau phần
dân dạt xuống Hộ Xá (Xuân Ninh hiện nay) chuyển về cư ngụ ở đầu mom Hành Thiện
và (chưa rõ là có sự tài trợ chính của một tín thí nào không?! (1)) dựng lại
chùa Thần Quang – Giao Thuỷ ở làng Hành Thiện với tên Nôm là Keo. Hơn chục năm
sau đó, dân Hành Cung dạt sang Dũng Nhuệ bên tả ngạn, với sự quyên góp tài trợ
rất lớn của bà Lại thị Ngọc Lễ, đã xây dựng lại ngôi chùa Thần Quang – Giao
Thuỷ trên đất Dũng Nhuệ (nay thuộc xã Duy Nhất – Vũ Thư – Thái Bình) cũng với tên
Nôm là Keo. Từ đó trong dân gian phải có sự phân biệt hai chùa này bằng vị trí
“trên – dưới” (Chùa Keo Thái Bình gọi là “Keo trên”, chùa Keo Hành Thiện gọi là
“Keo dưới” – do chùa Keo Thái Bình ở phía bắc của chùa Keo Hành Thiện và câu
“lên bắc xuống nam” mà nên chuyện “trên - dưới”).
4.
Hộ Xá – Thái Nghĩa – Nghĩa Xá:
Hộ Xá là một làng thuộc Hương Giao Thuỷ.
Địa phận làng – xã này cũng lân cận chỗ Tân Thịnh – Cống Khâm – Từ Quán – Bách
Tính hiện nay. Làng này cũng nằm ven hữu ngạn sông Hồng. Đến thời Lê trung
hưng, do lụt lội, lở sạt mất phần lớn đất làng nên một phần dân làng Hộ Xá dạt
sang bên tả ngạn, gom sống với nhau lập nên làng Thái Nghĩa. Nhà nước thấy nguy
cơ mất làng Hộ Xá xuống sông, bèn cấp khu vực đất ở phía nam Lạc Quần (thuộc
địa phận xã Xuân Ninh hiện nay, với tên chữ Hán là xứ đồng “Lộc Cơ = 祿奇” và được gọi Nôm na biến âm đi
thành “Rộc Cả”, chữ “RỘC” này còn được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay và đi
vào tiểu thuyết “Bão Biển” của nhà văn Chu Văn với công trình “Cống RỘC”. Thậm chí
chữ “RỘC” này còn được dùng để gọi tên vị Thành Hoàng làng Nghĩa Xá là “Thánh
RỘC CẢ”) để dân Hộ Xá có chỗ di cư. Một số ít dân Hộ Xá – Nghĩa Xá vẫn ở lại
phần làng cũ chưa bị sạt lở. Các địa danh Hộ Xá – Nghĩa Xá – Thái Nghĩa ở
“Hương Giao Thuỷ” xưa, ở phần đất huyện Vũ Thư Thái Bình bên tả ngạn sông Hồng
và ở xã Xuân Ninh huyện Xuân Trường vẫn hiện diện trên các bản đồ người Pháp vẽ
cuối thế kỷ 19. Vùng đất Hộ Xá (Xuân Ninh – Xuân Trường) một ít năm cũng là nơi
“di tản, dừng chân” của dân làng Hành Cung – Hành Thiện trước khi họ về mảnh
đất hình con cá chép ở mom sông để lập nên làng Hành Thiện sau này. (4).
Những điều này tôi viết dựa theo ý chép trong Gia phả họ Phạm làng Nghĩa Xá.
Riêng “tên chữ” của vùng đất mà dân Hộ Xá di cư đến và chuyển cả chùa theo hiện
nay thì tôi căn cứ vào chữ viết khắc trên bia 1886 – 1889 (Lộc Cơ = 祿奇).
Sau
vài trăm năm, kể từ đầu thế kỷ 17, dân làng Hộ Xá – Nghĩa Xá đã bị di dịch
thành 3 nhóm: Nhóm 1, di cư qua sông tránh lụt (ở thôn Thái Nghĩa, Nghĩa Xá bên
tả ngạn, thuộc địa phận xã Hồng Phong và Duy Nhất của huyện Vũ Thư – Thái Bình
ngày nay, Nhóm 2, di cư về vùng đất được “quy hoạch” cư trú ở chỗ xứ đồng Lộc
Cơ – Rộc Cả - thôn Nghĩa Xá - xã XuânNinh hiện nay và Nhóm 3, vẫn cố thủ lại ở
cố hương vùng Tân Thịnh, Đô Quan, Bách Tính ngày nay (Mộ Tổ mấy đời của họ Phạm
Nghĩa Xá – Xuân Ninh cho đến nay, vẫn nằm ở đó). Xem bản đồ người Pháp vẽ những
năm cuối thế kỷ 19, chúng ta dễ dàng tìm thấy những địa danh này.
Những
năm 1590 – 1610, Chùa Viên Quang được di dời vào trong đê vùng Vạn Giao Thuỷ,
đến xứ đồng Bát Dương xã Từ Quán và toạ lạc ở đó (gần lỵ sở Phủ Xuân Trường)
hơn 200 năm. Đến những năm đầu nửa sau thế kỷ 19, dưới thời Vua Tự Đức, lụt lội
rất nhiều. (Ví dụ: năm Bính Thìn – Tực Đức 9 – 1856 lụt to, đê Bùi Chu thuộc
Tổng Thuỷ Nhai Phủ Xuân Trường bị vỡ, các làng xã vùng Nam Phủ Xuân Trường ngập
trong biển nước (Việc này ghi rõ trong sách Trà Lũ Xã Chí ở mục “Kiếp Tai”) (5).
Năm 1846, lụt to, e rằng bị trôi mất ngôi miếu lớn, dân làng Thứ Nhất (gần chùa
Viên Quang – Bát Dương) đã tháo dỡ hạ giải đem bán cho dân làng Lãng Lăng đem
về dựng nên ngôi tiền đường thờ Phật ở chùa Kim Sa – Lãng Lăng – Xuân Đài –
Xuân Trường (Việc này được ghi rõ ở bia chùa Kim Sa dựng năm 1857) (6).
Năm 1866 – Tự Đức 19 – Bính Dần, lụt lớn, đê bao vùng có chùa bị vỡ, nền chùa
bị xói lở, chùa có nguy cơ bị trôi sạt như chùa Thần Quang vài trăm năm trước,
dân làng Nghĩa Xá, với ưu thế là ở vùng đất rộng rãi và mạnh về kinh tế, lại có
quan hệ tốt với nhà chức trách quản hạt nên đã làm đơn đề nghị quan địa phương
và Trung ương ủng hộ và cho phép di chuyển chùa về nơi mình cư trú là ở cánh
đồng Lộc Cơ – Rộc Cả. Bản thân chùa cũng “sở hữu’ nhiều ruộng đất có thể thu
được nhiều hoa lợi để gom vào việc xây dựng, tu bổ, di dời. May mắn nữa là lại gặp
được Quan Tri Phủ Xuân Trường lúc đó là Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn vốn cũng rất mộ
Phật đã hết lòng ủng hộ cả về chủ trương, tinh thần lẫn tài lực để di chuyển
chùa… tránh lụt. Lại nữa, gần đất Nghĩa Xá đó, làng bên – Lạc Quần, có Tiến sĩ
Phạm Chỉ Trai – Phạm Thế Lịch – hưu quan đạo cao đức trọng rất ủng hộ việc di
chuyển chùa. Thế nên việc di chuyển chùa đã được Nhà nước phê duyệt và quan,
dân ủng hộ nhiệt liệt.(7) Việc tháo dỡ, hạ giải chùa, đắp nền xây
móng chùa là nhờ vào dân các xã trong tổng Kiên Lao (Hà Lạn, Lạc Quần, Kiên
Trung, Trà Hải, Hà Quang, Bắc Câu, Ngọc Tỉnh, Hội Khê, Xuân Dục). Việc vận
chuyển các cấu kiện chùa (kể cả 3 ngôi tháp mộ Tổ Sư) từ Bát Dương về Lộc Cơ
(quãng đường chừng 20 km đường sông Hồng và sông Ninh Cơ) dựa vào Phường Thuỷ
Cơ (Phường vận tải thuỷ bằng thuyền bè) của huyện Xuân Trường và các chủ thuyền
xã Trà Lũ(8).
Việc vận chuyển và dựng lại chùa ở đất Lộc Cơ này cũng rất gian truân, 2 lần
gặp bão vào tháng 6 và tháng 8 năm 1867 khiến tường đổ ngói xô dân làng phải
làm lại, cho đến tận tháng Chạp năm 1867 mới hoàn thành(9).
5.
Chùa Viên Quang thờ ai:
Vấn đề này sẽ còn nhiều tranh biện và ý
kiến khó có thể thống nhất. Thân thế, hành trạng của các vị Thánh Tổ vốn đã rất
phong phú, lại xen kẽ với rất nhiều truyền kỳ, giai thoại lưu truyền trong dân
gian và giới nghiên cứu lịch sử xưa nay nữa nên khó có thể nhất trí. Mặc những
ý kiến khác nhau đó, tôi viết theo suy nghĩ và cảm nhận của mình về các Thánh
Tổ, các đại pháp sư được thờ ở Chùa Viên Quang từ trước đến nay.
5.1
- Giác Hải đại pháp Thiền sư:
Chùa
Viên Quang và chùa Nghiêm Quang ban đầu là do Vua Lý cho xây dựng để các Thánh
Tổ Không Lộ, Giác Hải tu hành, cũng là để nhà vua và hoàng thân quốc thích
thường xuyên hành hương lễ Phật. Một thời gian sau khi đắc đạo, trụ trì ở chùa
Viên Quang ít năm thì Thiền sư vân du bốn biển, hành hoá thập phương. Chỉ đến
khi già yếu Thiền sư mới trở về chùa Viên Quang chốn cũ và viên tịch ở đó. Điều
này nói rõ trong tấm bia 1122 hiện lưu ở chùa. (“Chúng sinh đã hoá độ, Thiền sư
đã già nua. Người bèn: chống gậy lại làng xưa, xuôi thuyền về quê cũ.”. Đỗ Văn
Hỷ dịch). Sau này Giác Hải viên tịch nhập tháp đá ở chùa. Tháp này cũng được di
dời hai lần cùng với chùa và nay toạ lạc tại khuôn viên Tháp cổ trong chùa.
5.2
- Không Lộ đại pháp Thiền sư:
Thánh
Tổ Dương Không Lộ - Không Lộ Đại Pháp Thiền Sư là một trong ba người (cùng với
Từ Đạo Hạnh, Giác Hải) sang Tây thiên cầu và đắc đạo. Sau khi đắc đạo, Thánh
Không Lộ về tu hành và trụ trì chính ở chùa Nghiêm Quang và cũng thường xuyên
giao du với Thánh Tổ Giác Hải ở ngôi chùa “bên cạnh” gần đó là chùa Viên Quang.
Thời gian Giác Hải vân du bốn biển, hoá độ thập phương thì chùa Viên Quang hầu
như do Thánh Tổ Không Lộ quán xuyến trông coi. Sau khi Thánh Tổ Dương Không Lộ
viên tịch thì Thánh Tổ Giác Hải mới trở về (lúc này đã rất già yếu) nghỉ ngơi
và trông coi chốn chùa cũ. Khi Thánh Tổ Dương Không Lộ viên tịch nhập tháp đá ở
chùa. Tháp này cũng được di dời hai lần cùng với chùa và nay toạ lạc tại khuôn
viên Tháp cổ trong chùa.
Hiện
nay (2020) ở chùa Viên Quang Nghĩa Xá vẫn còn lưu giữ 2 ngôi tháp đá lớn, các
tầng, đế, trụ, mái, nóc… đều dùng đá nguyên khối chế tạc. Hai Tháp này ghi cùng
một niên đại tạc dựng là đầu mùa thu năm Mậu Ngọ (Tôi dự đoán rằng đó là năm
Mậu Ngọ 1198, dưới triều Vua Lý Cao Tông và hai ngôi tháp đá này chứa xá lợi
của Thánh Tổ Giác Hải và Thánh Tổ Dương Không Lộ).
5.3
- Lý Thần Tông Hoàng Đế:
Hiện
ở chùa có bài vị thờ, có kiệu thờ Lý Thần Tông Hoàng Đế. Về vị Hoàng đế này vì
sao lại được thờ ở chùa Viên Quang thì có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng Vua Lý Thần Tông là “hậu thân” của Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh – người có lời
nguyền ứng nghiệm hoá hổ khi hành hương cầu đạo cùng Không Lộ, Giác Hải. Cũng
có ý kiến cho rằng, sau khi được Thánh Không Lộ chữa khỏi bệnh mang lốt hổ,
mình đầy lông lá vằn vện, Vua Lý Thần Tông đã quy y cửa Phật và sau đó viên
tịch ở chùa nên được thờ ở đó. Cá nhân tôi thì có cảm nhận nghiêng về giả
thuyết thứ nhất hơn, nghĩa là thờ “hậu thân” của Thánh Từ Đạo Hạnh (bạn sơ tu
cùng với Giác Hải, Không Lộ).
5.4
- Lục Thượng Thái Sư:
Đây
là người chắt họ của Thiền sư Giác Hải – Lý Tường Đĩnh. Ông thông minh nhanh
nhẹn, tự cung (hoạn)tiến cung làm quan thị, khéo léo tinh minh, được Vua Lý hai
ba triều tin yêu, phong thưởng chức quan cao, lương bổng hậu (Lục Thượng Thái
Sư). Lý Tường Đĩnh có công trùng tu nâng cấp ngôi chùa Diên Phúc – Viên Quang
thuở ban đầu, làm nơi chốn sang trọng trang nghiêm để nhà Vua, các quan cận
thần, phi hậu về tham quan bái Phật, dừng chân khi tuần thú bốn phương. Ông
cũng có bài vị, kiệu thờ ở chùa Viên Quang từ trước (cuối thời nhà Lê) đến nay.
Cũng
cần nói thêm rằng, đã từ rất lâu nay, trong dân gian, trong các sự tích truyền
kỳ, thậm chí trong các “Thánh lục”, các sách sử đạo và đời…đã có sự đan xen,
xáo trộn lẫn lộn thông tin, lai lịch, hành trạng của hai vị Thánh Tổ: Dương
Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Lại cũng có hai luồng ý kiến trái ngược nhau: Có
1 hay 2 vị Thánh Tổ Không Lộ - Khổng Lồ ? Cá nhân tôi nghiêng về nhận thức là
có 2 vị Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không khác nhau như khảo cứu công phu của
Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng và tác giả Phạm Đức Duật.
Trong
dân gian và cả chính trường đã có sự đan xen, lầm lẫn, cho là chỉ có một vị
Thánh Tổ Không Lộ - Minh Không bên cạnh Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh và Giác Hải. Vì
vậy, ngay ở ngôi chùa Viên Quang này, thời Lê có sắc phong cho vị đại pháp sư
“Phù Vân Quảng Đạt” (là pháp hiệu của Thánh Nguyễn Minh Không), trong khi đầu
thời Nguyễn lại có sắc phong cho vị “Đại Giác Không Lộ đại pháp sư” vốn là pháp
hiệu của Dương Không Lộ.
Cần
lưu ý thêm rằng, ở chùa Viên Quang từ cuối Lê, qua Nguyễn, đến ngày nay có 4 cỗ
kiệu, 4 Thần vị thờ: Giác Hải – “Phù Vân Quảng Đạt” – Vua Lý Thần Tông – Lục
Thượng Thái Sư, trong khi vẫn có 2 đạo sắc phong thời Nguyễn cho vị “Đại Giác
Không Lộ Thiền sư” ! Vào đầu thời Nguyễn, rộ lên phong trào lập miếu, dựng đền
thờ Thánh Không Lộ (ví dụ ở chùa Linh Quang làng Trà Lũ) và đều thống nhất theo
danh hiệu “Đại Giác Không Lộ Thiền Sư” như ở chùa Keo Hành Thiện hay chùa Keo
Thái Bình. Danh hiệu này được sử dụng khá thống nhất trong các sắc phong của
triều đình nhà Nguyễn.
Tôi
đồ rằng, danh hiệu “Phù Vân Quảng Đạt” đã được triều đình nhà Lê quan niệm là
danh hiệu của một vị Thiền Tổ Đại Pháp Sư Không Lộ - Minh Không (với tư cách là
1 người). Sang thời Nguyễn, cũng vẫn với quan niệm “1 Thánh” đó, triều đình đã
sắc phong cho Thánh với danh hiệu “Đại Giác Không Lộ Thiền sư đại pháp sư”.
Thêm
nữa, thời sơ khởi dưới triều Lý thế kỷ 11, đầu thế kỷ 12, các Thánh Tổ Không
Lộ, Giác Hải, Minh Không đều đã từng cư ngụ, trụ trì, nghỉ ngơi….ở chùa Nghiêm
Quang và chùa Viên Quang. Đồng đạo, liên tài và được triều đình tôn phong,
chẳng có gì làm lạ là các Thánh Tổ qua lại giao du với nhau thường xuyên, hành
trạng và công đức, tài năng, “pháp lực”, “thành tích” bị trộn lẫn, 2 thành 1, 1
hoá 2 là chuyện rất bình thường.
Vì
vậy, tôi nghĩ rằng ở chùa Viên Quang có 4 cỗ kiệu, 4 bài vị thờ… nhưng thực ra
là thờ… 5 vị: Thánh Tổ Giác Hải - Thánh Tổ Dương Không Lộ - Thánh Tổ Nguyễn
Minh Không - Lý Thần Tông Hoàng Đế - Lục Thượng Thái Sư Lý Tường Đĩnh(10).
Một
điểm đáng lưu ý là trong bia 1122, Dĩnh Đạt có viết về hành trạng của Thiền sư
Giác Hải “Riêng sang thượng quốc, thân tới thềm son”, mà việc “sang thượng
quốc” (tức sang Tàu) thì trong truyền thuyết có lẽ chỉ có sư Minh Không là làm
việc ấy!?
Ngoài
ra, ở chùa Viên Quang một thời gian dài trước đây còn có không gian thờ Tuệ
Tĩnh – (một Thiền sư – Đại Y sư). (Không gian thờ này, hiện nay (2020), bỏ
trống ở mé tả hậu cung nhà chùa. Vì chưa tiếp cận, chứng kiến văn bản hay khoa
cúng, bài vị, sắc phong, thần tượng nào của vị Thiền sư - Danh y này ở chùa nên
chúng tôi dành nói chuyện đó vào một dịp khác.
6.
Tháp Tổ chùa Viên Quang:
Hiện
nay (2020) ở chùa Viên Quang hiện diện 6 ngôi Tháp. Ngoại trừ 1 ngôi mang tính
chất “Kỳ đài”, “Tháp bóng”, thì còn 5 ngôi Tháp có “tháp danh” cụ thể. Chúng ta
lần lượt điểm danh và sơ kể lai lịch của từng ngôi Tháp theo niên đại:
6.1,2
Tháp số 1 và Tháp số 2:
Cả
hai tháp này đều cao, to, vách, trụ, bệ, chóp tháp hình hoa sen, mái… hoàn toàn
bằng đá khối được đẽo tạc tinh xảo. Vùng đất Nam Định không có núi đá, thời xa
xưa mà khai thác, vận chuyển và chế tạc được một khối lượng đá lớn như ở hai
tháp này chứng tỏ một sự trọng thị của xã hội, thập phương thiện tín và triều
đình (thời Lý) với tháp mộ của các Thiền sư. Tôi nghĩ rằng hai tháp này được
xây dựng từ thời nhà Lý, thời mà Đạo Phật được coi là quốc giáo, các bậc cao
tăng được tôn phong là “quốc sư”. Tháp được xây dựng chứa xá lợi, tro cốt của
Thánh Tổ Dương Không Lộ và Thánh Tổ Giác Hải.
Chữ
Hán khắc trên tháp:
Tháp số 01:
寳光塔
百年占大有
九級屹中孚
戊午年孟秋造
BẢO QUANG THÁP
Bách niên chiêm ĐẠI HỮU.
Cửu cấp ngật TRUNG PHU.
Mậu Ngọ niên mạnh thu tạo.
Tạm dịch:
Trăm năm nhìn có đó.
Chín bậc dựng cao đây !
(Hai từ: “đại hữu =大有” và “trung
phu = 中孚” là tên hai quẻ Dịch (“hoả thiên
ĐẠI HỮU”, “phong trạch TRUNG PHU”), ý nghĩa cao thâm mà tôi không rành nên
không diễn giải được !. Chữ “đại hữu” này cũng được Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn (người
chủ trì và tài trợ chính cho việc di chuyển chùa năm 1866 từ Bát Dương về Lục
Cơ – Nghĩa Xá) nhắc lại trong vế câu đối ông soạn, chế tạc thờ ở chùa năm 1868,
hiện nay (năm 2020) vẫn còn được lưu giữ ở chùa)
Tháp số 02:
祥光塔
道骨依然在
靈神儼若臨
戊午年孟秋造
TƯỜNG QUANG THÁP.
Đạo cốt y nhiên tại,
Linh thần nghiễm nhược lâm
Mậu Ngọ niên mạnh thu tạo.
Tạm dịch:
Xương khô nằm yên đó
Hồn thiêng vẫn quanh đây !
Hai ngôi tháp đá này đều được tạc dựng năm Mậu Ngọ. Tôi nghĩ rằng đó là năm Mậu
Ngọ - 1198 dưới thời vua Lý Cao Tông – vị vua được nhắc đến trong bia đá cổ ở
chùa: “ Hoàng thượng đương triều là bậc nhân sánh Đường Nghiêu, hiếu ngang Ngu
Thuấn. Cảm nơi hai Thánh quan du, mến dạ một người thắng thưởng.” (Bản dịch
trong sách Thơ văn Lý Trần của Đỗ Văn Hỷ). Kiểu cách hai tháp này khác hẳn các
tháp thời Trần ở Yên Tử và các tháp thời Lê với kết cấu xây gạch.
Hai
ngôi tháp này chứa xá lợi, tro cốt của các vị Thánh Sư. Xưa (trước năm 1866)
trong dân gian chắc vẫn truyền tụng sự duyên đó cho nên đến khi chuyển chùa từ
Bát Dương về Lục Cơ, từ LÀNG về TRẠI năm 1866, có điều kiện phải tháo tách các
cấu kiện đá ra, biết được bên trong hai ngôi tháp này có cốt Phật, cốt Thánh
thực nên Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn, Thái thú Phủ Xuân Trường mới viết vế câu đối với
ý nghĩa là: Lời truyền rằng tháp chùa có chứa “Phật cốt”, nay được “mở ra”,
chứng kiến (CHIÊM) thì quả là THỰC (đại hữu). (Phật cốt tự tương truyền thiên
bách niên, đương khai, kỳ chiêm đại hữu - 佛骨寺相傳千百年當開其占大有) (!?).
6.3,
Tháp số 03:
Tháp
này được xây dựng khi chùa ở xứ Bát Dương – “LÀNG Nghĩa Xá”. Cuối thời Lê, chùa
được dựng xây ở nhiều làng xã Bắc Bộ. Nhưng ở vùng Nam Định, chùa Viên Quang
vẫn là ngôi chùa lớn, nổi tiếng, cổ kính, đứng vào hàng “thủ lĩnh”! Những năm
sau khi được di chuyển đến xứ Bát Dương, chùa Viên Quang có lẽ không có sư trụ
trì. Khi phái Thiền Tào Động du nhập vào Bắc Việt Nam và lan truyền rộng rãi ở
vùng xứ Đông, kinh kỳ Thăng Long và vùng đất Nam Định – Thái Bình vào cuối thế
kỷ 18, đầu thế kỷ 19, chùa Viên Quang do Thiền sư HẢI CẦN (海勤) trụ trì. Thiền sư Hải Cần quê
quán xã Nhương Đông gần chùa, chưa rõ năm sinh, năm viên tịch, nhưng chắc chắn
là Thiền sư viên tịch ở chùa và có bia tháp được lập năm 1851 – Tân Hợi tại
chùa Viên Quang – Bát Dương – Nghĩa Xá làng. Tháp này năm 1866 cũng được “thiên
di” về chùa Viên Quang – Lục Cơ – Nghĩa Xá trại.
Toàn
văn chữ Hán và dịch nghĩa của văn bia tháp này như sau:
圓照塔銘
夫塔者内藏祖師之舍利外記祖師之來歷也。原祖師著跡瀼東托懷武。年十七請同閭寺樂髮進修。二十餘再依于弄溪名德盛奕傳文献。隨緣應化造像陶鐘無量陰功聖力誕為賢力。真傳衣鉢佛心印證人心。念昔年李殿軒昴一再請復囬修理。致曩日武神顯現二三依益振禪天。歷春秋傳祀有年圓照紹涅槃顯祖。恭惟。祖師圓照塔摩訶睿敏雅淡初終法諱海勤精進禪師宗門眾等道引真原追思祖德懸石為銘于以萬年如見耳。
皇朝嗣德肆年歲在辛亥仲夏吉日謹題。
VIÊN
CHIẾU THÁP MINH.
Phù,
Tháp giả nội tàng Tổ Sư chi xá lợi, ngoại ký Tổ Sư chi lai lịch dã. Nguyên Tổ
Sư, trứ tích Nhương Đông, thác hoài Vũ thị, Niên thập thất thỉnh Đồng Lư tự,
lạc phát thiền tu, Nhị thập dư tái y vu Lộng Khê, danh đức thịnh dịch truyền
Văn Hiến, tuỳ duyên ứng hoá, tạo tượng đào chung, vô lượng âm công, Thánh lực
đản vi hiền lực, chân truyền y bát, Phật tâm ấn chứng nhân tâm, Niệm tích niên Lý
điện hiên ngang, nhất tái thỉnh phục hồi tu lý, trí nẵng nhật vũ thần hiển
hiện, nhị tam y ích chấn thiền thiên, lịch xuân thu truyền tự hữu niên, Viên
chiếu thiệu Niết Bàn hiển tổ, Cung duy, Tổ Sư Viên Chiếu tháp ma ha Duệ Mẫn Nhã
Đạm Sơ Chung pháp huý Hải Cần Tinh Tiến Thiền sư, tông môn chúng đẳng, đạo dẫn
chân nguyên, truy tư tổ đức, huyền thạch vi minh, vu dĩ vạn niên như kiến nhĩ.
Hoàng
triều Tự Đức tứ niên, tuế tại Tân Hợi (1851), trọng hạ cát nhật, cẩn đề. (11)
Tạm
dịch:
BÀI
MINH THÁP VIÊN CHIẾU. (Tổ HẢI CẦN.)
Rằng,
Tháp là để bên trong cất giữ xá lợi, bên ngoài thì ghi chép lai lịch của Tổ Sư.
Nguyên Tổ Sư, sinh ra ở Nhương Đông, con nhà họ Vũ. Năm 17 tuổi xin vào tu ở
chùa Đồng Lư(12). Ngoài 20 tuổi lại trở về trụ trì chùa Văn Hiến(13)
làng Lộng Khê(14), tô tượng đúc chuông, hoá duyên rộng
rãi trong vùng, công đức lớn lao. Lĩnh hội được y bát chân truyền, có tấm lòng
bồ tát. Nhớ công trình chùa to lớn uy nghi từ thời nhà Lý, Tổ Sư ra công tu bổ,
sửa sang, trùng tu chùa chiền to đẹp. Trải nhiều năm, Tổ Sư về cõi Niết Bàn.
Kính
lạy Tổ Sư Viên Chiếu tháp ma ha Duệ Mẫn Nhã Đạm Sơ Chung pháp huý Hải Cần Tinh
Tiến Thiền sư. Đệ tử trong tông môn, nhớ công lao đức độ của Tổ Sư, dựng đá
khắc bia để vạn năm sau vẫn thấy rõ.
Ngày
lành, tháng giữa hạ, năm Tự Đức thứ 4 (1851) cung kính đề bia.
6.4,
Tháp số 04:
Tháp
này được xây dựng khi chùa ở xứ Bát Dương – “LÀNG Nghĩa Xá”. Tháp chứa xá lợi
của Tổ Giác Trân (覺珍) (quê xã
Nhương Đông, sơ tâm tu ở chùa Văn Hiến, sau về chùa Viên Quang, thuộc hàng “tiểu”
của các sư hàng chữ “HẢI” - ở đây trực tiếp là Tổ Sư Hải Cần). Tổ Giác Trân
sinh năm 1781, viên tịch năm 1849, thọ 69 tuổi, lập bia tháp cùng năm 1851 với
Tổ Hải Cần. Tháp này năm 1866 cũng được “thiên di” về chùa Viên Quang – Lục Cơ
– Rộc Cả - Nghĩa Xá trại.
Toàn
văn chữ Hán và dịch nghĩa của văn bia tháp này như sau:
光照塔銘記
夫塔者内藏本師舍利外叙本師顛末。原本師法諱寂韶覺珍號明敏禪師貫瀼東社武家令族也。誕生於辛丑年秋天菊月十九日良辰。第幼孤恃乳迺西向空門叩依文献寺飲酤酥乳迨長成年篤志參禪而落髮出家恩霑祖德衣鉢宗傳恭住持於圓光寺。年登十柒授戒於月光寺三壇具足六度莊嚴達為師而隨緣度世廣行造鑄一一精成舉皆壯麗。既而春秋陸拾有玖於己酉年春月亗貳廿貳日良辰而圓寂也。弟子眾等觸景思人慕恩感德建設火壇迎囬入塔以於億萬年之瞻仰也。玆記銘。
皇朝嗣德肆年歲在辛亥仲夏吉日謹題。
QUANG
CHIẾU THÁP MINH KÝ. (1781 - 1849)
Phù,
Tháp giả nội tàng bản sư xá lợi, ngoại tự bản sư điên mạt. Nguyên bản sư, pháp
huý Tịch Thiều Giác Trân, hiệu Minh Mẫn Thiền sư, quán Nhương Đông xã, Vũ gia
lệnh tộc dã, Đản sinh ư Tân Sửu niên (1781), thu thiên cúc nguyệt, thập cửu
nhật lương thần, đệ ấu cô thị nhũ, nãi tây hướng Không môn, khấu y Văn Hiến tự,
ẩm cô tô nhũ, đãi trưởng thành niên, đốc chí tham thiền nhi lạc phát xuất gia,
ân triêm Tổ đức, y bát tông truyền, cung trú trì ư Viên Quang tự, Niên đăng
thập thất, thụ giới ư Nguyệt Quang tự, tam đàn cụ túc, lục độ trang nghiêm, đạt
vi sư nhi tuỳ duyên độ thế, quảng hành tạo chú, nhất nhất tinh thành, cử giai
tráng lệ, Ký nhi xuân thu lục thập hữu cửu, ư Kỷ Dậu niên (1849) xuân nguyệt
chi nhị, trấp nhị nhật, lương thần nhi viên tịch dã. Đệ tử chúng đẳng, xúc cảnh
tư nhân, mộ ân cảm đức, kiến thiết hoả đàn, nghênh hồi nhập tháp, dĩ ư ức vạn
niên chi chiêm ngưỡng dã, Tư ký minh.
Hoàng
triều Tự Đức tứ niên, tuế tại Tân Hợi (1851), trọng hạ cát nhật cẩn đề.
Tạm
dịch:
BÀI
MINH THÁP QUANG CHIẾU. Tổ GIÁC TRÂN (1781 - 1849)
Rằng,
Tháp để bên trong thì cất giữ xá lợi, bên ngoài thì ghi chép lai lịch trước sau
của Tổ Sư.
Nguyên Tổ Sư, Pháp huý là Tịch Thiều Giác Trân, hiệu là Minh Mẫn Thiền sư, quê
quán xã Nhương Đông(15), con nhà họ Vũ. Tổ Sư sinh giờ lành,
ngày 19 tháng 9 mùa thu năm Tân Sửu (1781), Tuổi ấu thơ đã có lòng hướng Phật,
cứ xin vào ở chùa Văn Hiến, đến khi trưởng thành, quyết tâm xuống tóc quy y cửa
Phật, theo thầy là trụ trì chùa Viên Quang. Năm 17 tuổi, thụ tam đàn cụ túc ở
giới đàn chùa Nguyệt Quang(16). Tổ Sư tuỳ duyên độ thế, tạc tượng đúc
chuông, mọi việc trong chùa đều chu đáo, các công trình đều sáng đẹp. Ngày 22
tháng 2 năm Kỷ Dậu (1849) Tổ sư viên tịch, thọ 69 tuổi. Chúng đệ tử, trước cảnh
nhớ người, thiết lập giàn lửa, rước về nhập tháp để ức vạn năm sau vẫn được
ngẩng nhìn. Ghi chép lại như vậy.
Ngày
lành, tháng giữa hạ, năm Tự Đức thứ 4 (1851) cung kính đề bia.
Xắp
xếp tên các ngôi bảo tháp này theo thứ tự: “Bảo QUANG – Tường QUANG – VIÊN
chiếu – QUANG chiếu” (và sau này thêm tháp “VIÊN kính” ở dưới đây nữa, ta thấy
tên tháp đều có một mối liên hệ chặt chẽ lớp lang thứ tự với tên chùa VIÊN -
QUANG.
Vào
khoảng thời gian này (1851) cùng phái Tào Động, ở chùa Cảnh Linh – Trà Lũ Bắc
có Tổ sư Giác Đạo Ngạn là bậc cao tăng thạc đức. Tổ chân tu, hay chữ, uyên
thâm, am tường đạo pháp, được Nhà vua phong “Tăng Thống Đạo Nguyên Hoà Thượng”.
Đệ tử của Tổ sau cũng rất thành đạt, trụ trì các chùa Hoành Nha, Cổ Chất, Thánh
Ân (Chùa Cả
6.5,
Tháp số 05:
Sau
khi chùa được di chuyển về Nghĩa Xá trại vào năm 1866, ít năm sau đó chùa do
Thiền sư Thích Quang Diệp (1862 - 1929) trụ trì. (Những năm di chuyển 1866 –
1868, chùa không có sư trụ trì, mà có lẽ là do một vị Thiền sư hàng chữ SINH
nào đó trong vùng tổng Kiên Lao hoặc Phủ Xuân Trường kiêm quản).
Tổ
Quang Diệp (光烨), họ Lại,
sinh năm 1862 – Nhâm Tuất ở đất Phương Trung (tức là Quần Phương Trung thuộc
Quần Phương Hải Hậu), sơ tâm tu ở chùa Quảng Phúc – Ngọc Giang (chưa rõ hiện là
chùa, xã nào?!), sau thụ giới Thanh Văn ở chùa Cảnh Linh Trà Lũ Bắc (xã Xuân
Bắc – Huyện Xuân Trường – Tỉnh Nam Định), có công chủ trì cùng quan viên hương
mục làng Nghĩa Xá hoàn thiện chùa Viên Quang những năm 1886 – 1889. Tổ Quang
Diệp này cùng hàng với Tổ Quang Minh (Chùa Hoành Nha – Chùa Trà Lũ Bắc 1860 -
1944), Tổ Quang Tuyên (Chùa Cổ Lễ - Chùa Thiên Linh Thượng Phúc (Xuân Thượng –
Xuân Trường)),…
Toàn
văn chữ Hán và dịch nghĩa của văn bia tháp này như sau:
圓鏡塔
蓋聞寳塔乃阿育王設。外敘顛末而内藏舍利者。所以廣將來之省覺也。原本師法諱光烨號闡朗禪師嚴身菩薩。壬戌挺生誕質芳中頼氏。了無安之火宅知可托之禪扃遂投義舍名藍依師削髮。体異常人。庚辰年就玉江廣福。禀勤策勵而收攝威儀。甲申年依茶北景靈。進聲聞而堅持戒行。金石無違。六通可比。幾度登程貨水。順流寳筏榮還。累蕃量力施功。前殿後堂壯麗。金身色相。仙宮石塔總裝成。大覺香爐。鼎噐鼓鳴皆銅鑄。其如安祿遼海遵陸諸寺之功緣。普多何記。及消長隨時。死生有命。於己巳年十二月二十四日酉牌直往西遊夀七十八歲。嗚呼。悲心慟。其樹欲静而風不停。堂春愛而師扎府。是為銘。
皇保大丁丑年二月吉日謹題。
VIÊN
KÍNH THÁP. (1862 - 1929)
Cái
văn, Bảo tháp nãi A Dục Vương thiết, ngoại tự điên mạt nhi nội tàng xá lợi giả,
sở dĩ quảng tương lai chi tỉnh giác dã, Nguyên bản sư pháp huý Quang Diệp hiệu
Xiển Lãng thiền sư nghiêm thân bồ tát, Nhâm Tuất (1862) đĩnh sinh, đản chất
Phương Trung Lại thị, liễu vô an chi hoả trạch, tri khả thác chi thiền quynh,
toại đầu Nghĩa Xá danh lam, y sư tước phát, thể dị thường nhân, Canh Thìn niên
(1880) tựu Ngọc Giang Quảng Phúc, bẩm cần sách động nhi thu nhiếp uy nghi, Giáp
Thân niên (1884) y Trà Bắc Cảnh Linh, tiến Thanh Văn nhi kiên trì giới hạnh,
Kim thạch vô vi, lục thông khả tỉ, Kỷ độ đăng trình hoá thuỷ, thuận lưu bảo
phiệt vinh hoàn, luỹ phiên lượng lực thi công, tiền điện hậu đường tráng lệ,
Kim thân sắc tướng, Tiên cung thạch tháp tổng trang thành, Đại giác hương lư,
Đỉnh khí cổ minh giai đồng chú, Kỳ như An Lộc, Liêu Hải, Tuân Lục chư tự chi
công duyên, phổ đa hà ký, Cập tiêu trưởng tuỳ thời, tử sinh hữu mệnh, Ư Kỷ Tỵ
(1929) niên, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ nhật, Dậu bài, trực vãng Tây du, thọ
thất thập bát tuế, Ô hô, bi tâm đỗng, kỳ thụ dục tĩnh nhi phong bất đình, đương
xuân ái nhi sư trát phủ, thị vi minh.
Hoàng Bảo Đại Đinh Sửu niên (1937), nhị nguyệt, cát nhật, cẩn đề.
Tạm
dịch:
THÁP
VIÊN KÍNH. Tổ Quang Diệp (1862 - 1929)
Thường
nghe, Tháp báu do Vua A Dục(17) xây, bên ngoài thì ghi chép lai lịch
đầu cuối gốc ngọn, bên trong thì cất giữ xá lợi, để cho người đời sau biết.
Nguyên
Tổ Sư, Pháp huý là Quang Diệp, hiệu là Xiển Lãng thiền sư nghiêm thân bồ tát.
Tổ sinh năm Nhâm Tuất (1862) trong gia đình họ Vũ đất Phương Trung, Sớm biết
cuộc đời là bể khổ, chả bằng sớm tới cửa Thiền, bèn xin vào chùa thiêng Nghĩa
Xá, cắt tóc theo thầy. Năm Canh Thìn (1880) tới ở chùa Quảng Phúc Ngọc Giang
học hành tu luyện chăm chỉ. Năm Giáp Thân (1884) tới ở chùa Cảnh Linh xã Trà Lũ
Bắc(18),
thụ giới Thanh Văn, kinh kệ làu thông, kiên trì giới hạnh. Tu bổ chùa chiền
tráng lệ, hậu cung tiền điện sáng tươi, tô tượng trang nghiêm, ngời ngời sắc
tướng. Lư hương chiêng trống đều dùng đồng quý đúc thành. Ở các chùa An Lộc,
Liêu Hải, Tuân Lục đều có các công trình mang dấu ấn công đức hoá duyên của
Người. Nhưng tươi héo tuỳ thời, sống chết có mệnh. Giờ Dậu, ngày 24 tháng Chạp
năm Kỷ Tỵ (1929), Tổ quy Tây, thọ 78 tuổi(19).
Ôi ! Thương thay ! Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu dừng, Đương tiết Xuân mà sao
Thầy bỗng hoá ! Ghi chép lại như vậy.
Ngày
lành, tháng 2 năm Đinh Sửu (1937) thời Bảo Đại, cung kính đề bia.
P/S:
Các chùa An Lộc, Liêu Hải, Tuân Lục chưa rõ là ở địa phương cụ thể nào, có
người nói là ở huyện Nghĩa Hưng.
Ngoài
ra, ở chùa Viên Quang hiện có một tháp không tên, không bia, trên trán có 3 chữ
“Chiêm Khởi Kính = 占起敬 = Ngắm nhìn
mà sinh lòng kính trọng”, trong lòng tháp có đài hương và tiểu bảo tháp gốm
tượng trưng, ngoài cửa có câu đối:
(英氣鍾光岳//苑樓立古今
Anh
khí chung quang nhạc/Uyển lầu lập cổ kim
Tạm
dịch:
Khí
thiêng từ sông núi
Lầu
báu đứng xưa nay)
Tháp
này chúng tôi nghĩ rằng nó như “kỳ đài” ở nghĩa trang, là tháp tượng trưng
(không có cốt) cho khu vườn tháp của nhà chùa. Tháp này chắc chắn là được xây dựng
vào dịp chuyển chùa từ LÀNG về TRẠI những năm 1866….
7.
Khoa cúng Tổ chùa Viên Quang:
Thời
cận hiện đại (từ cuối thế kỷ 18), chùa Viên Quang có các Tổ Sư trụ trì, hoằng
hoá sớm hơn so với các chùa lân cận. Có thể đã từng có ở chùa Viên Quang nhiều
biệt khoa cúng Tổ Hải Cần, Tổ Giác Trân…nhưng nay đã thất lạc đâu đó. Hiện chỉ
thấy còn lưu hành ở chùa Biệt khoa cúng Tổ Quang Diệp (1862 – 1929). (
Bổ
thỉnh các vị Thiền sư:
1
- Nam mô Tôn sư Trường Minh tháp ma ha tì kheo pháp tự Quang Đức Anh Hoa thiền
sư nhục thân bồ tát (Hệ xuất Lã gia, Nhân tòng Cù thị, Tỉnh cư Nam Định, Phủ
thuộc Xuân Trường, Hải Hậu huyện danh, Quần Phương tổng hiệu),
2
- Nam mô Đồng Danh tháp ma ha tì kheo pháp danh tự Thanh Trạc Thích Minh Huy
thiền sư nhục thân bồ tát thiền toạ hạ, (Kỵ ngày 17 tháng 6),
3
- Nam mô Hoằng Nghĩa tháp ma ha sa môn tì kheo giới Nguyễn tộc tính pháp huý
Thích Thanh Tịnh tự Chân Tính giác linh,
Trong
Khoa này không hề có thỉnh đến các Tổ Hải Cần, Giác Trân. Chỉ gần đây, có thầy
pháp người làng Nghĩa Xá đã bổ thỉnh hai Tổ này (bằng nét chữ bút bi) mà cũng
không đúng thứ tự trước sau.
Ngoài
các Tổ sư có Tháp tại chùa hoặc có tên hiệu trong đường thỉnh Khoa cúng, ở chùa
Viên Quang thời giữa thế kỷ 19 (Những năm 1845 – 1866) có một vị sư pháp tự
“ĐẠO Minh” (Hàng chữ ĐẠO trong truyền thừa Tào Động, ngang hàng với các Tổ Đạo
Cẩn, Đạo Thịnh, Đạo Lưu (Chùa Thiên Thọ - Thọ Vực), Đạo Ngạn (Chùa Cảnh Linh –
Trà Lũ Bắc)). Tên Tổ Đạo Minh này được nói đến trong tấm bia công đức ghi việc
ông bà Hoàng Nghĩa Nhu – Đỗ Thị Yển tiến cúng tiền tu bổ, chế tác đồ thờ cúng ở
chùa năm 1854.
8.
Kiệu Thánh chùa Viên Quang:
Cũng
như nhiều ngôi chùa, miếu cổ khác, chùa Viên Quang chắc chắn cũng có các cỗ
kiệu thờ cúng ngày thường, rước diễu trong lễ hội. Nhất là chùa Viên Quang lại
đã từng là một trong số ít “Quốc Tự” - “chùa cấp quốc gia”. Thời Lê Trung hưng,
khi tu bổ khám thờ, cung thờ và các cấu kiện gỗ những năm 1590 – 1610 ở xứ Bát
Dương, chắc người xưa cũng đã có chế tạc các cỗ kiệu thờ, tương ứng với các
Thánh Tổ, quốc sư, đại pháp sư được sắc phong, có bài vị thờ ở chùa. Đến giữ
thế kỷ 19, trải qua hơn 200 năm mưa gió, thời gian, các cỗ kiệu này (và nhiều
đồ thờ tự khác nữa) đã hư hoại mất nhiều. Truyền rằng, ở chùa Viên Quang xưa có
4 cỗ kiệu.
Trải
thời gian hơn 200 năm, khung, viền, ngai, lan can…kiệu bị hư mục, gẫy hỏng. Năm
1854 (Tự Đức 7), có viên thư lại (nhân viên văn phòng) Phủ Xuân Trường tên
Hoàng Nghĩa Nhu, quê quán thôn Hoàng Nghĩa, tổng Hưng Long, Phủ Anh Sơn, Tỉnh
Nghệ An cùng vợ là Đỗ thị Yển, quê quán xã La Ngạn, tổng Vỉ Nhuế, huyện Đại An,
Phủ Nghĩa Hưng, đã công đức tiến cúng tiền của chế tác 3 cỗ kiệu rồng, trùng tu
sửa sang một toà thập điện, 8 toà Kim Cương, 2 toà Hộ Pháp, đồng thời chế mới 4
bức y môn, mộc bản, tổng chi phí ước chừng hơn một ngàn quan tiền.
Hơn
trăm năm sau, vào nửa sau thế kỷ 20, các cỗ kiệu chế cúng thời 1854 cũng đã hư
hỏng, gẫy nát. Đòn kiệu được tháo gác bảo quản trên áp mái hành lang chùa (ảnh
kèm theo), nhà chùa và dân làng đã chế mới 3 cỗ kiệu khác. (Hiện vẫn đang để
thờ ở chùa và diễu rước mỗi khi có lễ hội).
Ngoài
ba cỗ kiệu này, xưa ở chùa còn có 1 cỗ kiệu “bát cống” nữa mà nay nó đã bị lưu
lạc đi đâu chưa rõ, có thể là là do quá trình giao lưu, mượn dùng rước diễu
kiệu thờ giữa các địa phương lân cận thời giữa, cuối TK 20 mà nên nỗi. Việc này
cần có sự tìm hiểu và khảo cứu tiếp.
Trong
dân gian địa phương có lưu truyền một câu chuyện rằng “Mỗi khi lễ hội, chùa chỉ
rước 3 kiệu, năm nào mà vô tình rước 4 kiệu thì năm đó làng sẽ có….hoả hoạn.
Thực hư chuyện này thế nào thì chưa có kiểm chứng.
Lại
có dư luận nữa là: Khi xưa có một vị đồng đạo của tam Thánh (Không Lộ - Giác
Hải – Từ Đạo Hạnh) cùng đi Tây Thiên cầu đạo, giữa đường vị đồng đạo đó ốm, mất
ở chỗ “Phố Cháy” (!?). Nên về sau này chùa Nghĩa Xá còn thờ cả vị “Thánh Cháy”
ấy nữa là 4 kiệu. Năm nào mà rước cả kiệu “Thánh Cháy” thì sẽ có hoả hoạn. Cá
nhân tôi thì nghĩ rằng “dư luận” này là không có cơ sở (Vì vị ấy chưa học đắc
đạo thì sao tôn xưng là Thánh được).
Rất
có thể là, do mấy chục năm gần đây “cỗ kiệu thứ 4” bị “lưu lạc” chưa rõ tung
tích, nên phát sinh “dư luận” như vậy !?.
9. Chuông
khánh chùa Viên Quang: m
10. Câu đối hoành phi chùa Viên Quang: m
11. Ván khắc ở chùa Viên Quang: m
12. Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn: m
13. Truyền đăng chùa Viên Quang: m (Sư Đạo Minh thời 1854 ?)
14. Chùa Viên Quang xuống cấp: m
-------------
CHÚ THÍCH:
(1).
- Vùng đất miền thượng Xuân Trường – Trà Lũ – Ngọc Cục – Thượng Miêu – Hoành
Vực - Hoành Quán – Nhật Hy…mới được đắp đê bao cuối thời Trần, đầu thời Lê.
Trước đó vùng này cũng là những gò bãi lập lờ cửa sông, ven biển. Năm 1970 bản
thân tôi đã chứng kiến rất nhiều “xác” sú vẹt khi “lộn vườn” để trồng chè,
chuối ở xóm Khẩu Tam – Trà Lũ Bắc. Điều đó chứng tỏ rằng, trước TK 15, vùng đó
là bãi biển, có rừng ngập mặn và thuỷ triều lên xuống. Nay nếu đào khảo lại
vùng đất đó, chắc cũng sẽ gặp rất nhiều xác sú vẹt và vỏ sò bãi biển xưa !
(2).
- Xưa ở các điếm canh đê, mùa lũ thường có cắm một cây tre trên đó treo 1,2,3
cái sọt (bồ nhỏ) tương ứng với các mức báo động cấp lũ 1,2,3. Có lẽ những sọt
này tượng trung cho đồ dùng chứa, vận chuyển và đắp, hàn khẩu đê bị sạt lở
và….vỡ.
(3).
- Ví dụ chùa Keo Thái Bình dó Bà Lại thị Ngọc Lễ quyên cúng và tài trợ chính,
chùa Thiên Linh do một số quan võ người làng tiến cúng di dời, tu bổ,
(4).
- Theo sách Hành Thiện xã chí của Đặng Xuân Viện.
(5).
- Sách Trà Lũ Xã Chí của Cử nhân Lê Văn Nhưng, khắc in năm 1916. Tôi đã dịch và
xuất bản song ngữ năm 2019 qua Nhà xuất bản Tôn Giáo.
(6).
- Bia hiện lưu giữ ở chùa Kim Sa. Bia do Tú tài người làng Liêu Đông – Phạm
Thức soạn, Thiền sư Đào Kế - Thích Phổ Liên khắc.
(7).
- Những điều này là tôi dẫn từ nội dung tấm bia 1886 – 1889 hiện lưu ở chùa và
bài “Hộ Xá Viên Quang tự phổ khuyến văn” – di cảo của Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn (Hiện
lưu ở Thư viện Quốc Gia).
(8).
- Những điều này là tôi dẫn từ nội dung tấm bia 1886 – 1889 hiện lưu ở chùa và
bài “Hộ Xá Viên Quang tự phổ khuyến văn” – di cảo của Tiến sĩ Lê Khắc Cẩn (Hiện
lưu ở Thư viện Quốc Gia).
(9).
- Theo nội dung tấm bia 1886 – 1889 ở chùa.
(10).
- Thực tế, hiện nay ở chùa chỉ còn có 3 cỗ kiệu, còn một cỗ (kiệu bát cống,
khác hẳn với 3 cỗ còn lại) theo các già làng địa phương, đã bị….lưu lạc đâu đó
cách nay mấy chục năm.
(11).
- Cũng khoảng thời gian ấy, ở thôn Thứ Nhất xã Tân Thịnh cũng có một ngôi miếu
lớn, nguy cơ bị lụt sạt xuống sông, bèn bán “nguyên căn” bao gồm đầy đủ gỗ lạt
gạch ngói….cho dân xã Lãng Lăng – Xuân Trường – Nam Định tháo dỡ về để tu bổ,
xây dựng tiền đường chùa Kim Sa – Lãng Lăng (Việc này ghi chép rất rõ ở bia
dựng ngày 24 tháng 10 năm 1857 do đích thân Tổ sư Phổ Liên – Hư Tâm Khất Sĩ –
Trần Đào Kế - Sư chùa Liêu Đông khắc).
(12).
- Nay thuộc xã Tân Thịnh huyện nam Trực, tỉnh
(13).
- Nay thuộc huyện Trực Ninh, tỉnh
(14).
- Nay thuộc huyện Trực Ninh, tỉnh
(15).
- Nay phần chính là thôn Tương Đông, xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình. Thời trước, thôn Nhương Đông (瀼東) này nằm bên hữu ngạn sông Hồng,
gần chùa Viên Quang, sau đoạn sông này (chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam) lụt
lở hữu ngạn, bồi bên tả ngạn, dân làng Nhương Đông di một phần chính qua bên
tả, lập ra làng “NHƯƠNG Đông” (sau cải thành “TƯƠNG Đông” (湘東)), một phần nhỏ còn lại di dịch
vào xa mép nước, lùi xuống hạ du, lập thành thôn “NHƯƠNG Nam” (Sau cải thành
“TƯƠNG Nam” (湘南). Tương Nam
là phần đất nằm ven đê hữu ngạn sông Hồng, ven đường cái quan, phía thượng du
của Thị trấn Cổ Lễ. TƯƠNG NAM một thời đã là nơi đóng lỵ sở của Phủ Xuân
Trường, Nay chỗ này thuộc địa phận xã Nam Thanh huyện Nam Trực.
(16).
- Chùa Nguyệt Quang tại thôn Thạch Cầu xã Nam Tiến, huyện Nam Trực, Tỉnh
(17).
Vua A Dục: Một vị Vua dữ trong lịch sử Ấn Độ, sau ông quy y Tam Bảo và đã lập
nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni (qua
các tháp) và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền
Phật giáo.
(18).
– Chùa Cảnh Linh ở thôn Bắc Xã Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ, Phủ Xuân Trường (Nay là
Xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, Tỉnh
(19).
- Chỗ này tác giả soạn văn bia có sự nhầm lẫn khi xác định Thiền sư Quang Diệp
thọ 78 tuổi – thay vì đúng phải là 68 : (1862 – 1929).
ĐỖ
TRÁC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét