(Đọc “Đêm gọi dậy sao trời”, thơ Phạm
Trọng Thanh, NXB Hội Nhà văn tháng 10/2018)
Tuổi đời chưa cao, Phạm Trọng Thanh tuy đã vượt qua tuần
thất thập. Một đoạn đời thơ, anh đã gửi
tới chúng ta 9 tập thơ dài vắn… Chưa kể văn xuôi và các công trình góp công
biên tập, soạn thảo những tuyển tập văn, thơ dầy dặn công phu.
Để nối mạch suy tư, tôi xin dẫn đôi vần lấy từ trong “
Lá bay” của anh ra bày tỏ cùng bạn đọc: “Tôi cầm ánh lửa trên tay/ Rưng rưng
chiếc lá trước ngày tàn đông”. Vậy là ánh lửa trên tay anh vẫn cháy, cháy
vào những ngày đông đã tàn phai, lẽ tự nhiên mùa xuân đã đến. Tập thơ này “ Đêm
gọi dậy sao trời” trình làng lúc đang xuân của đất trời, xuân của chúng ta, của
cả riêng anh nữa, ta thử mở ra cùng thưởng thức.
Tập thơ này anh viết chắt chiu, tình nặng, nhiều ý tứ
sâu xa, khoát rộng. Có thể chia những mảng tâm tư lớn ấy soi vào từng con chữ,
từng câu, từng bài khá rõ nét. Qua bài thơ “ Gửi Xô Ny”, em bé gái Campuchia mới thoát chết qua
bàn tay Pônpôt “ Lũ bạo chúa trời tru đất diệt” trở về. Em vừa chịu cảnh
“ Bốn tên Ăng- ca đen kịt một khung
trời”, “ Em tái nhợt trước tám con mắt quỷ/ Chiều loạng choạng ngã nhoài
vào bóng đêm”. Chúng ta không thể làm ngơ:
“Không, Xô Ny ơi, không thể nào/
Không có ai là con người lại để/ Những ngọn roi song, những cuộn thừng dài/ Dồn
đất nước này vào nơi u thảm ấy”. Những người lính làm nghĩa vụ chi viện nước
bạn đã lên dường: “ Sau trận đánh bừng lên như ánh chớp/ là bước hành
hương MỘT DÂN TỘC TRỞ VỀ”. Vì chân lý sáng trong ấy mà “ Đồng đội anh
bao người ngã xuống/ Lòng sáng trong buổi sáng cuộc đời”. Hiểu sâu sắc
điều ấy, chân lý ấy, làm rung động trái tim những con người của một dân tộc được
hồi sinh: “ Xô Ny của các anh/ Giờ chia tay/ sao em
lại khóc/ Giọt nước mắt đã trở về/ không thể mất/ Giọt lóng lánh Biển Hồ trong
suốt”. Đọc lên ta thấy những người bộ đội tình nguyện Việt Nam đã làm một
việc đầy lòng nhân ái, nhân đạo yêu thương, cứu những con người, cứu một dân tộc
thoát nạn diệt chủng, hồi sinh, thoát dậy…
Chỉ hơn một tháng trời tiếng súng Tây Nam vừa dứt “…
Tuyến phố Lào Cai “địa đầu Tổ quốc”, Bùi
Nguyên Khiết cùng đồng đội lại “ dìu nhau lên chốt” ngăn dẹp ngoại xâm. Và
ngoài kia biển Đông dậy sóng căn thù. Chỉ một ngày 64 chiến sĩ hy sinh trên hòn
đảo Gạc Ma – “ Vòm sao lấp lánh hải đồ Tổ quốc/ Sáu mươi tư chàng
trai sải cánh bay lên”. Chưa ai kể ra tình cảnh của từng người, Phạm Trọng
Thanh đã bắt đầu làm công việc ấy. Anh đến từng nhà có người con vùng quê Nam Định hy
sinh sẻ chia. Gặp người cha liệt sĩ Phạm Gia Thiều, anh viết: “ In vào lòng
cha/ Vào nỗi nhớ kẽo cà cánh võng/ Trời vồng lên biển sáng trước hiên nhà/ Chòm
sao bánh lái”, “Trận chiến giữ đảo sáng mười Bốn tháng Ba/ Hai mươi chín mùa biển
sôi sóng đổ/ máu đỏ thềm san hô Gạc Ma/... “ Cha nghe Trường Sa vang vọng/
Chúng con tựa vào ngực biển cha ơi/ Cờ Tổ quốc thêm một lần thấm máu/ Khói lửa
boong tàu trăm dặm biển gầm sôi …” (Cha nhìn sao bánh lái).
Với liệt sĩ Nguyễn Xuân Thủy: “Anh cùng đồng đội/
Cuốc, xẻng, xà beng, đại liên, sắt đá/ B40 sàn thép boong tàu/ Trong tầm pháo
giặc kia quỷ quyệt/ Cờ Tổ quốc một vòng ôm lẫm liệt/ Hóa tượng đài sừng sững Gạc
Ma…” (Đà Nẵng mình em đứng nhớ).
Với liệt sĩ Nguyễn Ngọc Kiên: “Thiêng liêng mộ gió
Hàng Dương/ Hoàng Sa đó chí quật cường còn đây/ Trường Sa nam bắc
đông tây/ Biển trời Tổ quốc những ngày bão giông” (Thư nhà).
Qua sự hy sinh dũng cảm của những người con quê hương
Nam Định cùng đồng đội trên đảo Gạc Ma, chỉ bằng những dụng cụ cuốc xẻng thông
thường của những chiến sĩ công binh Hải quân chống lại với tầm pháo xa của giặc
– bọn quỷ quyệt; không bao giờ chúng ta quên được. Hình ảnh người chiến sĩ ôm cờ
Tổ quốc tung bay trên muôn trùng sóng biển thật oai hùng!
Có một vị tướng họ Hoàng tên Kiền, chỉ huy biết “ Nối
vòng tay lớn/Hợp sức trăm quê xây biển đảo muôn trùng” (Vị tướng và
những khoảng cách). Mang ý chí sắt son như một lời tuyên thệ: “ Trăm nghìn lần
không – bao – giờ - chấp – nhận/ Những mưu mô ngụy - tạo - bá - quyền”.
Nếu Lê Anh Xuân ghi được hình ảnh người chiến sĩ Giải
phóng quân “ngã xuống đường băng Tân Sơn
Nhất”, lửa đỏ đạn cầu vồng, để lại “ Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ” khiến
quân thù khiếp sợ thì Phạm Trọng Thanh đã vẽ một chân dung hình hài trên biển
Đông xanh “ Những người lính dầm mình/ Kê cao thềm Tổ quốc” khí
tiết hào hùng trước lũ bá quyền … Thức dậy lòng tin cả dân tộc rạo rực cùng hướng
về biển đảo.
Đối với các nhân vật lịch sử tiêu biểu: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được thế giới
tôn vinh là một trong mười tướng tài tiêu biểu của nhân loại. Ngày ông ra đi cả
dân tộc đưa tang, nhỏ lệ. Một buổi đẹp trời dưới chân núi Thọ nhà thơ cùng những
người con gái Quảng Bình “ Trên tay em/ Cúc đại đóa nắng nồng Quảng Trạch”
dâng “ Nhang thơm thao thức Thành Nam”, “ Kính cẩn nghiêng
mình”. Dựa sườn núi Vũng Chùa, ngoài kia là đảo Yến, dường như anh linh Người
vẫn dõi theo động tĩnh phía chân trời.
Nhà văn, anh hùng liệt sĩ người con trai Quần Anh, Hải
Hậu: “Một Nguyễn Thi mang giọng điệu hai miền/ Gáy sách xôn xao hành trình
năm tháng/ Lặng lẽ sống những trang văn trầm tĩnh/ Đường dài Trường Sơn ba lô
trên vai”. Ra đi, anh để những trang văn bất tử, hình ảnh những người con
miền Nam qua tác phẩm Mẹ vắng nhà, Ước mơ của đất, …tiểu thuyết Ở xã
Trung Nghĩa,… Với mẹ: “ Anh/ Cậu bé Nguyễn Hoàng Ca của mẹ/ Nhà văn Nguyễn
Ngọc Tấn của mẹ”. Trong trận chiến đấu ác liệt với quân thù - cuộc tổng
tiến công năm Mậu Thân, 1968, Nguyễn Thi đã anh dũng hy sinh tại
ngã Tư Bảy Hiền, Sài Gòn, thân xác vùi chung. Tổ quốc ghi công, thành phố
lấy tên anh đặt tên đường. Khi người mẹ vào thăm chỉ biết trải hương hoa trên
thềm phố lặng.
Ở một làng đồng trũng Ý Yên, Nam Định có một người con
lúc nhỏ mẹ “ quẩy” thúng theo cha lên Phú Thọ. Chập chững lớn lên dưới rừng cọ
trên đồi, trước ngày nhập ngũ vào chiến
trường, anh đã viết những dòng thơ lung
linh lay động lòng người. Ấy là nhà thơ Minh Chính, họ Hoàng, gốc Mạc xa xưa.
Bài thơ Đi học của anh được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc năm 1970
(năm anh hy sinh ở chiến trường K) trở thành ca khúc không chỉ dành cho lứa tuổi
thiếu niên nhi đồng, mà người lớn cũng yêu thích: “Thơ anh/ xòa bóng trời
xanh/ Tình anh trao gửi/ đã thành bài ca” (Khát vọng người đi).
Hình ảnh mười cô gái Đồng Lộc như mơ màng tụ về hình
tượng cây bồ kết bên đường. Cây đứng “ chờ ai”, và nhớ “ Những mái đầu
con gái xót thương ai”. Nhà thơ đã thả hồn mình vào cây lá tâm tư: “
Cây vượt dốc lên Ngã Ba Đồng Lộc/ Đồng đội hóa thân vào đất đá làm đường/
Mười nấm mộ những người trinh trắng/ Cành lá gọi về thân thiết một mùi hương”,
và “ Tôi đứng lặng nghe dòng suối hát/ Thản nhiên xanh cây bồ kết bên
trời” (Cây bồ kết bên đường).
Nhà thơ về “ Thăm nhà chị Sáu” mà nhớ “ Bước chân
thiếu nữ ngày nào”, mà
lặng nhìn kỷ vật “Gầu nước giếng trong veo trời hạ”. Chị Sáu ra đi tuổi
đời còn rất trẻ “ Người nữ anh hùng tóc chấm ngang vai”. Tác giả thương
xót, nhung nhớ:“Hàng Dương xa gió xa về vồn vã/ Đất Đỏ trời mây tha thiết
nhường này/ Câu hát ân tình tuổi thanh xuân bất tử/ Hóa tượng đài chị đứng tóc
còn bay…” (Thăm nhà chị Sáu).
Có một đội ngũ đông đảo, hơn sáu trăm nhà giáo hy sinh
ở chiến trường miền Nam, hóa biểu tượng sáng ngời bút nghiên, trang sách giữa
trời: “ Kìa ngọn bút vút cao nền mây trang sách mở/ Bia tưởng niệm đồi 82
Tây Ninh/ Tinh anh về hội tụ/ Sáng dòng tên các nhà giáo quên mình” (Chưa
khắc vào bia).
Trong tập, cùng với các bài thơ viết về các anh hùng,
liệt sĩ, tác giả không quên gói trong những dòng thơ lục bát, tình quê hương,
tình mẹ. Tuy không nhiều lời chỉ đôi dòng, đôi chữ mà khi ta chạm vào đã “thao
thiết” con tim. “Nét quê năm tháng đổi dời/ Ngỡ câu hát cũ một đời chìm tan/
Mẹ ngồi gom những gian nan/ Đèn khêu thao thiết đôi làn dân ca” (Hát mụa
làng ta); hay“ Tôi tìm kỷ vật của tôi/ Đâu con gà đất chụm môi gáy về/ Tôi
tìm dáng mẹ khăn che/ Dàn go dệt chiếu trăng hè võng đưa” (Thăm bảo tàng Đồng
Quê). Chỉ bấy nhiêu lời mà chứa đựng bao nhiêu tình cảm…
Phạm Trọng Thanh “cầm ánh lửa trên tay” cùng “ Đêm gọi
dậy sao trời” truyền cho ta hơi nóng tỏa lan. Hồn thơ chất chứa tâm hồn, cả
vui, buồn, lẫn yêu thương và căm giận… Tôi bỗng như nghe đâu đây lời Phu - xích
vọng về: “Hỡi loài người, hãy cảnh giác!”
Nam Hồng, Thanh minh – 2019.
Phạm Ngọc Khảnh
ĐC:
Nam
Hồng, Đông Anh, Hà Nội.
ĐT: 0349890369
Email: phamlinhnd@yahoo.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét