Trước khi bàn chuyện Vần Quẩn tôi xin nói qua về Vần Ngang Câu Bát.
Mở
Đầu Bằng Một Bài Thơ Đương Đại
ĐỜI
Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát nhàu!
(Trần
Trọng Giá, FB Lục Bát Việt Nam)
Câu
bát của cặp đầu tiên có chữ thứ 6 và chữ thứ 8 ăn vần với nhau (vần
ngang câu bát) (chờ mơ). Tôi không nghĩ là tác
giả chủ ý tạo cặp vần này. Nó tuôn ra theo dòng chảy của tứ thơ và vì “không phạm
luật” nên ngài không để ý. Rồi chữ “chờ” vần với
chữ “thơ” ở câu lục trên, chữ “mơ” vần với chữ “tơ”
ở câu lục kế tiếp và dính líu, dây nhợ với chữ “thơ”
ở câu bát dưới.
Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến cả lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.
Thực tế hơi khó gặp những bài thơ, đoạn thơ như thế. Trong 4 hoặc 5 (nếu đoạn thơ nằm ở giữa bài thì có 5) cặp vần ở đó thường cũng có một hai cặp thông vận, và dĩ nhiên, độ ngọt của đoạn thơ cũng vì thế mà bớt đi.
Trong
Truyện Kiều có vần ngang câu bát nhưng chữ thứ 6 và chữ thứ 8 chỉ nhiều nhất là
thông vận gần (không có trường hợp chính vận) nên tuy độ ngọt có hơi cao nhưng
không đến mức “ngọt lợ”, ngọt gắt. Vì thế, tôi sẽ chú ý đến vần quẩn nhiều hơn.
Tuy
nhiên, trong một số đoạn có sự kết hợp giữa Vần Ngang Câu Bát và Vần Quẩn khiến
độ ngọt của vần gia tăng. Lúc đó vai trò của Vần Ngang Câu Bát sẽ được nhắc đến.
VẦN
QUẨN TRONG TRUYỆN KIỀU
Đọc
kỹ Truyện Kiều vài lần tôi ghi nhận được 121 đoạn vần quẩn. Đoạn ngắn nhất 7
câu, đoạn dài nhất 15 câu. Tổng Cộng 937 câu.
Vậy
vần quẩn là gì?
Mở
Đầu Bằng Một Đoạn Kiều Có Vần Quẩn
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
Lời vàng vâng lĩnh ý cao
Họa dần dần bớt chút nào được không!
(Câu
490 đến 496)
Chuỗi
vần “nào tao nao” mới chuyển qua “nguời rồi trời”
đã quay lại “sao cao nào”, nghĩa là mới “đi dăm
phút đã về chốn cũ”. “Dăm phút” ở đây là khoảng cách một cặp lục bát. Âm vang của
vần loãng đi ít nhiều sau khoảng cách đó nên, khác với vần ngang câu bát, 4 cặp
vần quẩn (6 chữ) phải toàn là chính vận mới tạo được cảm giác nhàm chán vần
tương đối rõ nét.
Nhưng
không phải lúc nào 6 chữ tạo vần quẩn cũng ăn vần chính vận. Sự thay đổi từ 6
chữ đó, cộng với một số chi tiết khác, làm độ nhàm chán của đoạn vần quẩn thay
đổi. Tùy độ nhàm chán, tôi chia vần quẩn làm 5 loại: Nhàm
chán rõ rệt, mấp mé nhàm chán rõ rệt,
nghiêng về phía nhàm chán, nằm trên đường biên và không nhàm chán.
Trước
khi đi vào chi tiết của từng loại vần quẩn tôi xin đưa cái links dẫn đến 121 đoạn
Vần Quẩn Trong Truyện Kiều để độc giả khỏi mất công đọc cả văn bản 3254 câu để
lục tìm.
121 Đoạn Vần Quẩn
Trong Truyện Kiều Theo Thứ Tự
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/121-oan-van-quan-trong-truyen-kieu-theo_3.html
Ngoài
ra còn có một đoạn tác giả vướng vào vần quẩn để làm nổi bật một thủ pháp nghệ
thuật. Vì chỉ có một đoạn nên xin được đưa lên đầu để khỏi bị lạc.
Thủ
Pháp Nghệ Thuật Vô Hiệu Hóa Hội Chứng Nhàm Chán Vần
Trong
Truyện Kiều có một đoạn vần quẩn đáng chú ý:
Bước vào, vừa rắp thị hùng ra tay
Nàng rằng: Trời nhé có hay!
Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
Đem người dẩy xuống giếng khơi
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên Tích Việt ở tay
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?
Lời ngay, đông mặt trong ngoài
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
(Câu
1178-1186)
Trong
đoạn này 3 câu bát có vần ngang kết hợp với 3 lần vần quẩn tạo nên 4 chuỗi liên
tiếp 12 chữ “cùng vần”; vì thế hội chứng nhàm chán vần rất nặng. Nhờ thủ pháp
nghệ thuật – làm nổi bật cảnh Thúy Kiều vạch mặt và sỉ vả Sở Khanh – nên hội chứng
nhàm chán vần đã được “trung hòa”.
Vần
Quẩn Nhàm Chán Vần Rõ Rệt
Điều
kiện cần là cả 6 chữ tạo vần quẩn đều ăn vần chính vận. Cũng có truờng hợp ngoại lệ (nhưng rất
hiếm) nếu có một số chi tiết khác xuất hiện.
Trong
số 121 đoạn vần quẩn, theo tôi, 16 đoạn có hội chứng nhàm chán vần rõ rệt. Sau
đây là vài thí dụ:
1/
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì
Đã tu tu trót quá thì thì
thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền
(Câu
3046-3052)
Ngoài
6 chữ ở vị trí gieo vần (chi gì thì đi thì khi)
– toàn là chính vận - còn thêm 2 chữ thì (màu xanh) đi lang thang nhưng âm vang
cũng “dính líu” làm độ ngọt của vần tăng lên.
2/
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây
Những là phiền muộn đêm ngày
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn
Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày
Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần
Chàng Vương nhớ đến xa gần
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền
Tình xưa ân trả nghĩa đền
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần
Chàng từ nhẹ bước thanh vân
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương
(Câu
2856-2868)
Chỉ
cần 7 câu dưới là độ ngọt của vần đã đủ chán. Thêm 5 câu kế (phía trên) – dù có
2 chữ “xuân” và “văn” là thông vận gần - âm điệu ầu ơ cũng gia tăng. Rồi còn âm
vang của chuỗi vần “đây ngày thay ngày mây bay”
khiến hội chứng nhàm chán vần càng thêm trầm trọng.
3/
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà
Thì chi chút ước gọi là duyên sau
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy hoá công
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
(Câu
74-88)
Mặc
dầu có chữ “hoa” ở câu thứ 5 là “thông vận gần”
với vần “a”, nhưng vì lực lượng tạo vần quá đông
- quẩn đi, quẩn lại đến 3 lần, mà lại toàn là chính vận - nên hội chứng nhàm
chán vần vẫn rất nặng.
4/
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
Chút thân quằn quại vũng lầy
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Xót vì cầm đã bén dây
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta
(Câu
1954-1964)
Chỉ
cần một lần vần quẩn với 6 chữ “sao đào nào sao rào vào”
cũng đủ tạo hội chứng nhàm chán vần. Thêm hai lần quẩn với 9 chữ “ai phai lời may lầy rày hay dây ngày” càng làm cảm
giác chán ngán sâu đậm thêm.
5/
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
Sắm sanh lễ vật rước sang
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn
1690.Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra
(Câu
1686-1692)
6/
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra
Nhẫn từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai
Cách tường phải buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng người thướt tha
Buông cầm xốc áo vội ra
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Giơ tay với lấy về nhà
Này trong khuê các đâu mà đến đây?
(Câu
286-296)
7/
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những bậc tiêu tao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
Lời vàng âm lĩnh ý cao
Họa dần dần bớt chút nào được không!
(Câu
490 -496)
8/
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lẻn bước ra đi
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn
Dù khi gió kép, mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!
Nghe lời nàng đã sinh nghi
Song đà quá đỗi, quản gì được thân
(Câu
1108-1114)
9/
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Hai bên giáp mặt chiền chiền
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Điều đâu nói lạ dường này
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên
Nước trôi hoa rụng đã yên
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian
Khuyển ưng đã đắt mưu gian
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
(Câu
1696- 1710)
Tuy
toàn thông vận gần nhưng các âm “in, yên, uyên”
đọc lên âm vang rất gần nhau, hơn nữa, nhờ đông quân nên cảm giác nhàm chán vần
vẫn rõ nét.
10/
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
Cửa hàng buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh
(Câu
2104-2110)
11/
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lọ là thâm tạ mới là tri ân
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
(Câu
2430-2436)
12/
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao
Ngẫm từ gây việc binh đao
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền cao
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
(2488-
2498)
13/
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
Nghe càng đắm ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
(Câu
2570-2580)
14/
Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương
Sắm xanh xe ngựa vội vàng
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan
Xảy nghe thế giặc đã tan
Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiết Giang
Được tin Kim mới rủ Vương
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa .
(Câu
2950-2956)
15/
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
Trông lên linh vị chữ bài
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin ngơ ngác rụng rời
Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
Này chồng này mẹ này cha
Này là em ruột này là em dâu
(Câu
2974-2982)
16/
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em
Cũng là phận cải duyên kim
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
(3064-3070)
Vần
Quẩn Mấp Mé “Nhàm Chán Rõ Rệt”
Nếu
thay vì 6 chữ tạo vần quẩn đều là chính vận (như ở trên), đoạn thơ chỉ có 5 chữ chính vận - chữ còn lại là thông vận gần
hoặc thông vận – thi nó được xếp vào loại “mấp mé nhàm chán rõ rệt”.
Thí
dụ:
1/
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ
Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
(Câu
460 đến 466)
Năm
chữ chính vận (tri gì kỳ chi thì) đi với thông vận
kia đã tạo được âm vang “mấp mé nhàm chán rõ rệt”
2/
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
Tai nghe ruột rối bời bời
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!
Cùng nhau trót đã nặng lời
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
(Câu
546-552)
Năm
chữ chính vận (trời bời lời lời dời) đi với thông
vận (phôi)
đã đủ tạo âm vang “mấp mé nhàm chán rõ rệt”. Thêm chữ (bời)
đi lạc nữa nên dộ nhàm chán còn mạnh hơn.
3/
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời
Miếng ngon kề đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quít cho cam sự đời
Dưới trần mấy mặt làng chơi
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa
(Câu
830 đến 836)
4/
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi
Vả đây đường xá xa xôi
Mà ta bất động nữa người sinh nghi
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
(Câu
840-846)
5/
Một nhà huyên với một Kiều ở trong
Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục bụi trong
Trăm năm để một tấm lòng từ đây
(Câu
874 đến 880)
Chữ
“hồng”
là thông vận gần với vần “ong”nên độ chán ngán của
đoạn thơ cũng không xa mức “rõ rệt” bao nhiêu. Vì thế, theo tôi, nó cũng đủ ngọt
để được xếp vào loại “mấp mé nhàm chán vần rõ rệt”.
6/
Trăm nghìn đổ một trận cười như không
Mụ càng tô lục chuốt hồng
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Buồng the phải buổi thong dong
Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
(Câu
1304 đến 1310)
7/
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường
Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang
Lòng còn gửi áng mây vàng
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay
(Câu
1314-1320)
Mặc
dù chữ “Đường” là thông vận (không phải thông vận
gần), 5 chữ chính vận (ang) cũng tạm đủ, lại thêm 2 chữ “hàng ngang” (ở ngoài vị trí gieo vần) cũng xía vào
đóng góp chút âm vang nên đoạn thơ càng dễ dàng bước vào hàng “mấp mé”.
8/
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây
Sụt sùi chàng mới thưa ngay
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân
Nàng đà tính hết xa gần
Từ xưa nàng đã biết thân có rày
Tại tôi hứng lấy một tay
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi
(Câu
1436-1444)
Chuỗi
5 chữ vần “ay” đã tạm đủ, lại thêm 4 chữ thông vận
ở trên (ai tai lời tây)
giúp đoạn thơ ung dung trụ ở hàng “mấp mé”
9/
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh
Thưa nhà huyên hết mọi tình
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày
(Câu
1606-1612)
10/
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân
Mày ai trăng mới in ngần
Phần thừa hương cũ bội phần xót xa
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
(Câu
1792-1798)
11/
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa
Nhà hương cao cuốn bức là
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng
Bước ra một bước một dừng
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa
Phải chăng nắng quáng đèn lòa
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
(Câu
1802-1808)
12/
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
(Câu
1920-1926)
13/
Để nàng cho đến thế thì cũng thương
Lánh xa, trước liệu tìm đường
Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê
Có nhà họ Bạc bên kia
Am mây quen lối đi về dầu hương
Nhắn sang, dặn hết mọi đường
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
(Câu
2078-2084)
14/
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng
Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong
Từ Công nghe nói thủy chung
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao
(Câu
2292-2298)
15/
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha
Trên vì nước dưới vì nhà
Một là đắc hiếu hai là đắc trung
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng
E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa
Nhân khi bàn bạc gần xa
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào
(Câu
2482-2488)
16/
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời
Quan quân truy sát đuổi dài
Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang
Trong hào ngoài lũy tan hoang
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi
Trong vòng tên đá bời bời
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ
(Câu
2522-2528)
17/
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la
Rằng: Từ công hậu đãi ta
Chút vì việc nước mà ra phụ lòng
(Câu
2624-2630)
18/
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
Tiền đường thả một bè lau rước người
Trước sau cho vẹn một lời
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
(Câu
2684-2694)
19/
Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao
Phòng xuân trướng rủ hoa đào
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng
Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi
(Câu
2874-2880)
20/
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
Một lời đã trót thâm giao
Dưới dày có đất trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh!
(Câu
3082-3088)
Theo
ghi nhận của tôi thì trong số 121 đoạn vần quẩn của Truyện Kiều có 20 đoạn “Mấp
Mé Nhàm Chán Vần Rõ Rệt”:
460-466,
546-552, 830-836, 840-846, 874-880, 1304-1310, 1314-1320, 1436-1444, 1606-1612,
1792-1798, 1802-1808, 1920-1926, 2078-2084, 2292-2298, 2482-2488, 2522-2528,
2624-2630, 2684-2694, 2874-2880, 3082-3088.
Độc
giả có thể đọc cả 20 đoạn theo link sau đây:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-map-me-nham-chan-ro-ret.html
Nghiêng
Về Phía Nhàm Chán.
Nếu
độ ngọt của vần ít hơn loại “mấp mé nhàm chán vần” chút ít – nghĩa là phải có ít nhất 4 chữ chính vận và một hoặc vài chi tiết
khác hỗ trợ - đoạn thơ sẽ được xếp vào loại “Nghiêng Về Phía Nhàm Chán”.
Xin
mời đọc 2 thí dụ sau đây:
1/
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Từ nghe vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm tin nhà thì không
Lửa tâm càng dập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Ví bằng thú thật cùng ta
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên
(Câu
1534-1540)
Chỉ
có 4 chữ chính vận (già nhà ta là) lại có đóng
góp của 2 chữ “hoa”
là thông vận gần, có âm vang không khác vần “a” bao nhiêu, nên tôi xếp đoạn thơ
vào loại “nghiêng về phía nhàm chán”
2/
Ra vào một mực nói cười như không
Đêm ngày lòng những dặn lòng
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên
Lời tan hợp nỗi hàn huyên
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng
Tẩy trần vui chén thong dong
Nỗi lòng ai ở trong lòng
mà ra
(Câu
1566-1572)
Có
3 chữ vần “ong”(lòng dong lòng) và 3 chữ vần “ông”
(không hồng nồng) âm vang không được gần nhau
như “a” với “oa” nhưng nhờ có 3 chữ vần “ong” (lòng
thong tr0ng) đi lang thang cũng đóng góp đáng kể cho âm vang của của vần
“ong” nên tôi có thể mạnh dạn xếp đoạn thơ vào loại “nghiêng về phía nhàm chán”.
3/
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì
Dứt lời nàng vội gạt đi
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều
(Câu
3074-3080)
Theo
cách nhìn nhận của tôi, trong Truyện Kiều có 23 đoạn vần quẩn thuộc loại
“nghiêng về phía nhàm chán”:
450-
456, 466- 472, 710-716, 758-766, 792-798, 964-970, 1256-1268, 1268-1274,
1352-1362, 1378-1384, 1534-1540, 1566-1572, 1580-1594, 1884-1890, 1938-1944,
2042-2052, 2052-2058, 2212-2218, 2630-2636, 2648-2654, 2982-2988, 3074-3080.
Độc
giả có thể đọc 23 đoạn này theo link:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nghieng-ve-phia-nham-chan.html
Cả
3 loại vần quẩn trên đây (độ ngọt cao thấp khác nhau) đều ít nhiều cho độc giả
cảm giác nhàm chán. Tôi xếp chúng vào chung một khu có tựa “59 Đoạn Vần Quẩn Tạo
Cảm Giác Nhàm Chán” để độc giả dễ dàng tham khảo theo link:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-tao-cam-giac-nham-chan-van.html
Vần
Quẩn Nằm Trên Đường Biên
Có
một số đoạn vần quẩn mà độ ngọt nhiều hơn sự cần thiết chút ít (để làm trơn
dòng chảy của ý tứ) nhưng chưa đủ để xếp vào loại “nghiêng về phía nhàm chán”
và cũng không thể xếp vào loại “không có hội chứng nhàm chán vần”. Nó là những
đoạn vần quẩn “nằm trên đường biên”.
Sau
đây là 2 thí dụ:
1/
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Rằng: “Sao trong tiết Thanh minh
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Ba chữ quanh ghềnh minh đã có thể “trung hòa” nhóm vần thanh xanh tanh nhưng nhờ hai chữ thanh Thanh đi lang thang góp thêm âm “anh”
nên cả đoạn có thể xếp vào loại “nằm trên đường biên”.
2/
Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
Chiếc thoa nào của mấy mươi
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý ra vào
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
(Câu
308-314)
Đoạn
thơ có 5 chữ “mươi người rơi rơi xôi” ăn vần
thông vận, có âm vang không được gần gũi lắm (chữ “tài”
xa quá), may nhờ chữ “người” ở vị trí không
gieo vần “ké” vào làm độ ngọt của đoạn thơ gia tăng chút xíu để được nằm trên
đường biên giữa một bên có nhàm chán vần (3 hạng bậc) và bên kia không có.
Và
đây là 28 đoạn vần quẩn nằm trên đường biên:
54-60,
308-314, 348-354, 394-400, 530-536, 610-616, 766-780, 906-914, 1034-1040,
1040-1046, 1118-1126, 1224-1230, 1460-1466, 1480-1486, 1514-1520, 1554-1560,
1664-1670, 1810-1816, 1836-1842, 2384-2390, 2422-2428, 2466-2472, 2512- 2518,
2612-2618, 2762-2768, 2856- 2862, 2992-2998, 3036-3042.
Theo
góp ý - rất chính xác - của một độc giả tôi đã chuyển đoạn 3074-3080 lên vùng
“vần quẩn nghiêng về phía nhàm chán”
Độc
giả có thể đọc 28 đoạn “nằm trên đường biên” này theo link:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nam-tren-uong-bien.html
Vần
Quẩn Nhưng Không Tạo Hội Chứng Nhàm Chán Vần:
Nếu
những đoạn vần quẩn mà 6 chữ “quẩn” là thông vận (hoặc thông vận xa) với nhau
(theo thứ hạng chính vận, thông vận gần, thông vận, thông vận xa, cưỡng vận và
lạc vận) thì chúng thuờng không có hội chứng nhàm chán vần.
Nếu
có 2 hoặc 3 chữ ăn vần chính vận với nhau thì chúng cũng bị ngăn cách bởi những
chữ thông vận hoặc thông vận xa. Có trường hợp có 3 chữ ăn vần chính vận ở cùng
một chuỗi nhưng ở chuỗi khác cả 3 chữ đều là thông vận hoặc thông vận xa với 3
chữ kia - nhiều khi một chữ còn là thông vận với hai chữ còn lại của cùng một chuỗi
– nên âm vang kết hợp không đủ độ ngọt để tạo sự nhàm chán dù rất ít.
Thí
dụ:
1/
Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang
Đem tin thúc phụ từ đường
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề
Liêu Dương cách trở sơn khê
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình
(Câu
530-536)
Âm
vang chính của đoạn thơ là 3 chữ vần “ang” nhưng “mỗi chữ một phương” nên rời rạc.
2/
Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
(Câu
340- 346)
Chuỗi
vần đầu tiên là 3 chữ chính vận (ai hai bài)
nhưng chuỗi vần sau lại “đi hướng khác” (đời hòi thòi),
đọc lên rất “trơn”, không có chút gì nhàm chán.
Trong
Truyện Kiều có 33 đoạn vần quẩn loại này:
30-36,
340-346, 502-508, 566-572, 670-676, 718-724, 806-812, 952-958, 996-1002,
1078-1088, 1126-1132, 1192-1198, 1212-1218, 1344-1350, 1368-1374, 1678-1684,
1714-1722, 1776-1782, 1872-1878, 2004-2010, 2136-2142, 2142-2148, 2162-2172,
2172-2178, 2240-2246, 2274-2280, 2306-2312, 2352-2358, 2414-2420, 2444-2450,
2500-2506, 2846-2852, 3030-3036.
Độc
giả có thể đọc 33 đoạn vần quẩn nhưng không nhàm chán theo link sau đây:
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2020/10/van-quan-nhung-khong-nham-chan.html
Vài Lời Phân Bua
Như
đã trình bày ở trên, chỗ dựa chính để phân định 5 loại vần quẩn là số lượng những
“chữ quẩn” ăn vần chính vận với nhau trong đoạn thơ. Nhưng còn nhiều chi tiết
khác nữa.
a/
Chúng nằm liền nhau hay bị phân cách?
b/
Chúng nằm chung một chuỗi hay chữ ở chuỗi này, chữ ở chuỗi kia?
c/
Những chữ ngăn cách chúng là thông vận gần, thông vận, thông vận xa hay cưỡng vận?
Âm vang của chúng gần gũi hay xa cách tới mức nào đối với nhóm chữ ăn vần chính
vận? (Nhiều chữ Việt có “độ thân cận” của âm vang giữa 3 loại thông vận và
chính vận rất khác nhau).
d/
Có những chữ không nằm ở vị trí gieo vần nhưng ăn vần chính vận (hoặc âm vang gần
gũi) với nhóm chữ chính vận trong 6 “chữ quẩn” cũng có thể làm cán cân
“nghiêng” trong việc phân định các loại vần quẩn.
e/
Không thể chỉ dựa vào mặt chữ mà phải đọc lên để nghe âm vang.
Trong
bài viết, giữa một bên là 59 Đoạn Vần Quẩn Tạo Cảm Giác Nhàm Chán (gồm 3 hạng bậc)
và bên kia là 33 Đoạn Vần Quẩn Không Gây Hội Chứng Nhàm Chán Vần có 28 Đoạn Vần
Quẩn Nằm Trên Đường Biên làm trái đệm. Nhưng không phải vì thế mà có thể nói chắc
rằng đoạn vần quẩn nào cũng nằm đúng vị trí của nó. Sự sai sót thế nào cũng có.
Tóm
lại, việc phân định các loại vần quẩn trong thơ lục bát nói chung, và Truyện Kiều
nói riêng, không phải đơn giản – và do đó - khó tránh được tính chủ quan của
người làm công việc phân định. Nhưng đó là thứ chủ quan dựa trên logic chứ
không phải quyết định hoàn toàn cảm tính.
Kết
Luận
Lục
bát là thể thơ rất nhiều vần mà lại toàn là vần bằng, gieo cùng một vị trí trên
mỗi câu thơ nên âm điệu du dương nhưng đều đặn, tẻ nhạt. Đọc khoảng 20 câu mà nếu
tình tiết của tứ thơ không hấp dẫn là đã ầu ơ, chán ngán. Truyện Kiều có 3254
câu trong đó 121 đoạn, 937 câu thuộc hàng ngũ vần quẩn. Trong số đó 59 đoạn 506 câu đã tạo cảm giác nhàm chán vần.
Lấy
cách nhìn nhận thơ ca đương đại để đánh giá một tác phẩm đã sống trong lòng dân
tộc từ mấy trăm năm thì quả có hơi bất công. Tuy nhiên, việc “không khéo” để
đám vần quẩn ngang nhiên quậy phá một vườn hoa ngôn ngữ tươi đẹp như Truyện Kiều
thì theo tôi, chủ nhân của nó cũng có phần đáng trách.
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com
Bài viết rất rõ, cặn kẽ và rất chính xác, khoa học, Rất bổ ích cho bạn đọc. Qua bài viết mởi thấy Anh PĐN tôn trọng và trách nhiệm với bạn đọc thế nào! Cảm Ơn Anh !
Trả lờiXóa