Thứ Hai, 10 tháng 8, 2020

DĨ HƯ TRUYỀN HƯ / Nguyễn Mộng Nhưng


             以
         (Lấy cái không có thật truyền đi cái không có thật)

Nhà nghiên cứu Nguyễn Mộng Nhưng
                                 
Vì khó diễn đạt bằng một câu thuần Việt ngắn gọn, cho nên đành dùng một câu trong sách Nho. Thiết tưởng tạm dịch như thế, ai cũng có thể hiểu được ý nghĩa câu này.
Trong đời sống thực tế có rất nhiều sự việc “dĩ hư truyền hư” đã diễn ra trong mỗi làng xã cho đến phạm vi cả nước. Dưới đây là một số dẫn chứng:
·      “Dĩ hư truyền hư” ở làng
1- Chuyện gọi sai tên các cây cầu.
Hải Hậu, liên tục hơn 40 năm là huyện điển hình văn hoá toàn quốc. Người dân nơi đây đã và đang tiếp nối truyền thống văn vật của đất Quần Anh xưa. Nhưng, cũng như nhiều “làng văn hoá”, “xã anh hùng” khác, ở miền đất này không phải tất cả đều tốt đẹp. Vẫn còn tệ nạn xã hội, vẫn còn thói hư tật xấu và đi kèm là những hành vi kém văn minh. Trong đó, có kha khá chuyện “dĩ hư truyền hư”.

Tên địa lý không chỉ hàm chứa thông tin mà còn có ý nghĩa lịch sử. Việc gọi đúng tên các địa chỉ, các công trình kiến trúc tiền nhân để lại cũng là một cách thể hiện tình yêu quê hương và lòng biết ơn các bậc tiền bối.
Tên người đã bị đọc “trại” từ đời nào không rõ (“Dưỡng” thành “Rưỡng”, “Dục” thành “Rục”, “Giao” thành “Rao”…). Không chỉ tên một số ngôi chùa, bến đò bị đọc chệch đi (chùa “Cát Tường” thành “Cát Thượng”, bến đò “Nhang Cát” thành “Giang Cát”…), hầu như tất cả người lớn, trẻ con trong vùng đã gọi không đúng tên các cây cầu các cụ đặt từ xưa: Phe Nhì, Phe Ba… Phe Tám, Phe Chín (Phe là đơn vị hành chính nhỏ nhất của đất Quần Anh xưa, gồm vài ba ngõ xóm nằm ở phía Bắc và phía Nam các cây cầu dọc dòng Trung Giang - con sông là huyết mạch giao thương, “xương sống” kiến trúc hành chính, văn hoá của làng), bị họ gọi nhầm ra là Hai Nhì, Hai Ba,… Hai Tám, Hai Chín…
Thật đáng buồn, trong số những người gọi sai tên cầu, có cả những người cao tuổi, người làm công tác tuyên truyền, giáo dục.  “Ròng ròng theo mẹ”, người trẻ học người già: “cầu hai ba”, “cầu hai chín”, khi chuyển thành địa chỉ thông tin, liên lạc… đã thành “cầu 23”, “cầu 29” viết trên bảng hiệu, hoặc tin nhắn trên Facebook, trên Zalo. Những người đã bắt chước nhau gọi tên và viết như thế, sao không tự đặt câu hỏi: có cầu 23, cầu 29, vậy cầu 13, cầu 19… ở đâu?
2- Thầy nói không đúng sử sách
Thầy Ph. V. Th. được tất cả học viên học chữ Hán Nôm thuộc C.L.B Hán Nôm Quần Anh (xã Hải Anh, Hải Hậu, Nam Định) yêu mến kính trọng. Bởi không chỉ thông thạo Trung văn và chữ Hán (trước khi nghỉ hưu thầy là giáo viên tiếng Trung trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội), thầy Th. còn có hiểu biết rất rộng về lịch sử, văn học… Các bài nói của thầy trong các buổi sinh hoạt C.L.B luôn hấp dẫn người nghe vì cách trình bầy bài bản và sinh động.
Nhưng trong một buổi sinh hoạt C.L.B, thầy đã đọc một bài viết của thầy có đoạn: “…Trần Trọng Kim nói: Truyện Kiều còn, nước ta còn…”
Thầy đã viết không đúng tên người nói và trích dẫn thiếu. Câu này đầy đủ là: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Người nói là ông Phạm Quỳnh, nói tại Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội) năm 1925 trong một cuộc họp kỷ niệm năm sinh Nguyễn Du.
Vậy ra một người thông kim bác cổ như thầy Th. cũng không thể biết hết mọi điều. Nhưng điều không hay sẽ xảy ra là từ đây tất cả những người đã nghe thầy nói hôm ấy có dịp sẽ nhắc lại câu thầy Th. nói như một tín điều. (Thầy đã nói chẳng nhẽ lại không đúng!).
Có tình trạng rất nhiều học sinh, sinh viên, nhà văn, nhà khoa học, nhà lý luận và cả lãnh đạo cấp cao nữa… đã nói sai, viết sai tiếng Việt, điển tích, sự kiện… nguyên nhân một phần là do những ông thầy.
3- Kỷ yếu dòng họ dung dưỡng sự thù hận
Đó là cuốn “Kỷ yếu Nguyễn đại tông Quần Anh, Hải Hậu, Trực Ninh” (Nam Định), in và lưu hành nội bộ từ năm 2013. Lẽ ra, tập Kỷ yếu này sẽ giúp con cháu trong dòng họ hiểu biết cặn kẽ hơn về lịch sử, truyền thống của tổ tiên, qua đó phát huy lòng tự hào, tự tôn trong cuộc sống, đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN giàu mạnh, văn minh. Nhưng tiếc thay, bên cạnh những thành công, tập Kỷ yếu đã bộc lộ một số sai sót và lệch lạc nghiêm trọng, những sai sót và lệch lạc ấy khiến con cháu hiểu không đúng về sự thật lịch sử, thậm chí gây bất bình trong và ngoài họ.
Lệch lạc nghiêm trọng nhất trong phần viết về Khởi tổ Nguyễn Bặc, là Kỷ yếu đã vùi dập Lê Hoàn.
Về việc Lê Hoàn sát hại Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp…, việc Lê Hoàn tư thông với Dương Vân Nga, việc Dương Vân Nga trao long bào đưa Lê Hoàn lên ngôi vương… các sử gia đã ghi chép và bình luận xác đáng, công bằng.
Chỉ có Kỷ yếu họ Nguyễn đại tông Quần Anh mới dám viết “hành động xảo trá, đê hèn, thô bỉ của bè lũ Lê Hoàn – Dương Vân Nga…”, dám gọi “bọn hậu duệ và bồi bút của Lê Hoàn”, “Lê Văn Hưu là hậu duệ của Lê Hoàn nói láo…” (trang 30 - Kỷ yếu…)
Thậm chí, Kỷ yếu họ Nguyễn đại tông Quần Anh đã cố ý hạ thấp vai trò, công lao của Lê Hoàn trong việc đánh thắng quân xâm lược nhà Tống: “…Chính Nguyễn Bặc – Đinh Điền – Phạm Hạp – Trịnh Tú – Lưu Cơ cùng Đinh Tiên Hoàng đã xây dựng 10 đạo quân tinh nhuệ là nhân tố chủ yếu, là lực lượng để thắng Tống (Không nhắc đến Lê Hoàn); “Quân Tống đánh ta lần này chỉ là quân địa phương tầm thường” (?) (trang 32 -Kỷ yếu).
4- Nội san của CLB văn chương nhận lầm danh nhân
Đó là Nội san số 3-2018 của CLB thơ Quần Phương, ấn hành nhân dịp kỷ niệm 130 năm thành lập huyện Hải Hậu (1888-2018).
Mục “Giới thiệu thơ của các Danh nhân Hải Hậu”, ở trang 16, có bản dịch bài thơ “Đề miếu tổ Quần Anh” của Ngô Thế Vinh kèm theo tóm tắt tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của ông.
Ban biên tập nội san tưởng Ngô Thế Vinh là con dân Quần Anh nên mới xếp ông là Danh nhân Hải Hậu và viết: “Khi nghỉ việc, về mở trường Đại tập ở Quần Phương Trung, nay là xã Hải Trung, huyện Hải Hậu”.
Sự thực không phải như vậy.
Ngô Thế Vinh người làng Bái Dương, phủ Nam Chân, nay là xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Thi đỗ Tiến sĩ năm 1829, Ngô Thế Vinh được triều đình giao cho nhiều trọng trách, cao nhất là chức Lang Trung bộ Lễ. Ông đã làm được nhiều việc có ích cho dân, cho nước. Nhưng rồi ông đã bị triều đình bãi nhiệm, do một lần làm giám khảo ông đã phạm quy trường thi. Ngô Thế Vinh về quê, mở trường Dương Đình tại Nam Định dạy học. Do vị thế và học vấn uyên thâm của ông, trường Dương Đình trong nhiều năm đã thu hút hàng nghìn môn sinh ở trong và ngoài tỉnh theo học. Nhiều người đã đỗ đạt cao. Ngoài ra, ông còn về một số địa phương dạy học theo thỉnh cầu của dân sở tại, trong đó có Quần Anh (Hải Hậu). Đồng thời Ngô Thế Vinh đã soạn nhiều văn bia, văn tế, đề thơ ở nhiều đền, miếu tại những nơi ông đến. Bài thơ “Đề Quần Anh tổ miếu” của ông là một dẫn chứng. Mấy chục năm nay, bài thơ này (viết bằng chữ Hán, có phiên âm), được lồng trong khung kính, treo trang trọng tại đền thờ Liệt tổ khải xã, thuộc xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Những ai đã một lần đến đây đều dễ dàng nhìn thấy. Không có chuyện “Do thời gian nên các bản in không còn rõ ràng nên việc phiên âm gặp khó khăn…” như ban biên tập nội san đã nguỵ biện khi không thể đăng được nguyên tác chữ Hán, và phiên âm bài thơ mà chỉ đăng bản dịch ra quốc ngữ!
Một người từ nơi khác đến địa phương A sinh sống và làm việc một thời gian, sau đó lại trở về quê hương bản quán, sống cho đến khi trọn đời, thì địa phương A không thể nhận người đó là người của quê hương mình. Việc Tiến sĩ Ngô Thế Vinh về dạy học ở Quần Anh (Hải Hậu) nằm trong trường hợp này.
Như vậy, ngoài việc đề thơ ở miếu tổ Quần Anh, như đã làm ở nhiều địa phương khác, và mặc dù có công đào tạo nhiều nhân tài cho đất Quần Anh, Tiến sĩ Ngô Thế Vinh chỉ duy nhất là người làng Bái Dương (Nam Dương) chứ không thể là người Quần Anh (Hải Hậu) như ban biên tập nội san CLB thơ Quần Phương đã lầm.
Nếu không có sự đính chính, rất có thể những người đọc nhỏ tuổi, những người ít hiểu biết về lịch sử khi đọc nội san này sẽ bị ngộ nhận theo.
(Xin mở ngoặc: “Kỷ yếu Nguyễn Đại tông Quần Anh - Hải Hậu” và “Nội san số 3-2018 của CLB thơ Quần Phương” đều là ấn phẩm có ghi “Lưu hành nội bộ”. Nhưng thiết nghĩ không thể lấy đó làm “kẹp chì” an toàn, dung chứa những điều sai trái. Người viết buộc phải lên tiếng là điều bất đắc dĩ)
·     “Dĩ hư truyền hư” trong nước
1- Từ điển của giáo sư Nguyễn Lân và “những sai sót để đời”
GS Nguyễn Lân là một trong số tên tuổi cự phách trong nền giáo dục Việt Nam đương đại. Từ điển Bách khoa mở (Wikipedia) đã giới thiệu ông như sau:
Nguyễn Lân (14/6/19067/8/2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa tâm lý học, giáo dục học của hệ thống các trường sư phạm ở Việt Nam. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Ông cũng được trao Giải thưởng Nhà nước về bộ từ điển, gồm: “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”, “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”, “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” và “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”
Cùng với những công trình biên soạn, khảo cứu  đồ sộ, Nguyễn Lân còn tạo dựng một gia đình “danh gia vọng tộc” tiếng tăm vang khắp cả nước. Vợ chồng ông có 8 người con tất cả đều là giảng viên đại học, bảy người có học vị tiến sĩ, trong đó có bốn giáo sư, ba phó giáo sư.
Tuy nhiên, ít người biết, bên cạnh những trước tác lẫy lừng Nguyễn Lân đã để lại một sự nghiệp nhiều tai tiếng.
- Mạo nhận học hàm Giáo sư và sự nhầm lẫn của truyền thông.
Lúc sinh thời, trong các tác phẩm của mình viết, Nguyễn Lân luôn đề tên ở bìa sách là Giáo sư Nguyễn Lân. Ví dụ những sách đã xuất bản như Từ điển chính tả phổ thông (1963); Từ điển Tiếng Việt (1967); Từ điển Pháp Việt (1981); Từ điển từ và ngữ Hán Việt (1989); Từ điển Việt Pháp (hợp soạn, 1989); Từ điển thành ngữ và tục ngữ (1989); Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp Việt (1994); Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2002)... đều đề tên là Giáo sư Nguyễn Lân. Tuy nhiên quyết định 162/CP về đợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam được ký ngày 11/9/1956 bởi cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gồm 29 người không có tên của Nguyễn Lân và các đợt phong sau đó, các năm 1980, 1984, 1988, 1991,... đều không có tên của nhà giáo Nguyễn Lân.
(Theo Wikipedia)
- Bộ Từ điển với “những sai sót để đời”
Đó là 4 cuốn “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”, “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”, “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” và “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”, đã nêu ở trên.
Một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ và cả độc giả đã kê ra “những sai sót” của bộ từ điển này. Nhưng công phu và thuyết phục hơn cả là loạt bài của nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công đăng trên trang Web Tuấn Công thư phòng, sau đó được chỉnh sửa, bổ xung và in thành sách, dày trên 500 trang, nhan đề “Từ điển G.S Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu”, trong đó liệt kê hàng trăm (có thể lên đến hàng nghìn) lỗi sai trong các từ điển của Nguyễn Lân. Trong tác phẩm này, Hoàng Tuấn Công cũng đã chỉ ra những lỗi sai cơ bản mang tính hệ thống, thể hiện kiến thức nông cạn và thái độ làm việc ẩu tả, thiếu khoa học của Nguyễn Lân.
Vậy mà, với tổng cộng hàng ngàn trang in, được nhiều nhà xuất bản tái bản nhiều lần, có trong tất cả thư viện các cấp, các nghành, bộ từ điển của GS Nguyễn Lân được nhiều thế hệ học sinh, sinh viên coi là công cụ tra cứu ngôn ngữ chính xác, đáng tin cậy suốt mấy chục năm qua! Một cuộc “dĩ hư truyền hư” toàn diện. Hậu quả như thế nào chắc ai cũng có thể hình dung được!



2- “Cậu bé đuốc sống” Lê Văn Tám’ – “sáng chế” của nhà sử học Trần Huy Liệu.
Hành động tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt cháy kho xăng giặc của thiếu niên Lê Văn Tám, là một trong những tấm gương anh dũng hy sinh– biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Cái tên Lê Văn Tám, cùng với Võ Thị Sáu không chỉ được ghi vào sử sách mà còn là một trong những cái tên phổ biến nhất được đặt tên cho các trường học, đội thiếu niên. Đến mức hầu như tất cả các phường, xã trong cả nước đều có một trường tiểu học, một liên đội thiếu niên mang tên Lê Văn Tám. Tại thành phố Hồ Chí Minh, một công viên khá đẹp ở quận 1 cũng được đặt tên là Lê Văn Tám. Rất có thể ở nhiều địa phương khác cũng có những đơn vị, những công trình kiến trúc khác có tên Lê Văn Tám?
Lê Văn Tám sẽ còn sống mãi với thời gian nếu như… có một ngày người ta đã được biết: “Cậu bé đuốc sống” không hề có thật trên đời. Lê Văn Tám chỉ là “sáng chế” của nhà sử học Trần Huy Liệu. Trên tạp chí Xưa & Nay – cơ quan ngôn luận của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 340, tháng 9-2009, nhà sử học Phan Huy Lê – một người học trò và đồng sự tin cậy của Trần Huy Liệu đã thuật lại sự việc theo sự uỷ thác của người đã khuất. Xin chép lại một số đoạn quan trọng nhất:
“…Về câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin đươc tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của GS Trần Huy liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10-1945 và loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh, nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã dựng lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét. GS còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay và hôm sau bình luận là một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì gục ngay tại chỗ hay nhiều lắm chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy mấy chục mét đến kho xăng. GS tự trách mình là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.
Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch. GS giải thích là thời Nam bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hi sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám. Lúc bấy giờ GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời nên GS nói rõ là muốn tạo dựng lên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
…Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí tôi mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã qúa cố và đối với lịch sử. GS Trần Huy Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc.”
(trang 8, 9 tạp chí Xưa & Nay số 340, tháng 9-2009)
Sau khi sự thật được công bố, phần lớn người đọc có lương tri đều bình tĩnh đón nhận thông tin. Họ thông cảm với GS Trần Huy Liệu về động cơ và thiện chí của ông khi “dựng” câu chuyện “cậu bé đuốc sống” Lê Văn Tám cùng những giải trình tâm huyết của nhà sử học Phan Huy Lê. Nhưng cũng có những người tự cho mình là “kiên định cách mạng”, không được đọc trực tiếp tạp chí, khi nghe lại thông tin này đã không chấp nhận. Thậm chí họ còn nặng lời kết tội GS Phan Huy Lê.
Bây giờ, GS “sáng chế” và người biện hộ đều đã quy tiên.
Mong sao những người có trách nhiệm sẽ có cách ứng xử thích hợp với “biểu tượng” anh hùng Lê Văn Tám được “dựng lên” bằng trí tưởng tượng?
Những chuyện “dĩ hư truyền hư” có ở mọi miền đất nước. Và hy vọng sẽ không có thêm một “cậu bé đuốc sống” nữa!

Hà Nội, tháng Tám 2020
N M N


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét