Đến
những năm đầu thế kỷ XX, hai bên cổng đền có khắc thêm đôi câu đối:
萬 劫 有 山皆 劍 氣
六 頭 無 水不 秋聲
Vạn
Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục
Đầu vô thủy bất thu thanh
Dịch nghĩa;
Vạn
Kiếp có ngọn núi nào thì đều vương hơi gươm kiếm
Lục Đầu không con nước nào không vang tiếng đao binh
Đôi
câu đối này cũng đồng thời được khắc trước đền thờ Trần Hưng Đạo tại số 36, đường
Võ Thị Sáu, Q.I, TP Hồ Chí Minh. Tác giả của đôi câu đối là Tam nguyên Vũ Phạm
Hàm, đậu Thám Hoa nhưng thực chất là Thủ khoa (Đình Nguyên), giành học vị đệ nhất
giáp Tiến sĩ cập đệ khoa thi Đình đời vua Thành Thái năm thứ tư (năm 1892, khoa
thi này không lấy Trạng Nguyên và Bảng Nhãn). Đỗ đồng khoa, xếp danh liền sau
Vũ Phạm Hàm là Nguyễn Thượng Hiền, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng
giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.
Từ
khi ra đời đến nay, đôi câu đối của bậc đại khoa vẫn được đánh giá là "ngắn
gọn, cô đọng, nhưng đã thể hiện được khí phách oai hùng của những trận chiến chống
quân Nguyên xâm lược, còn vang vọng mãi đến tận hôm nay làm cho chúng ta thêm tự
hào và phấn chấn".
Thế
nhưng, trong hơn nửa thế kỷ, kéo dài cho đến tận hôm nay, chữ "thu
thanh" trong vế đối thứ hai vẫn là nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh cãi
chưa có hồi kết.
Vào
những năm 60 của thế kỷ XX, nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc đã đề nghị đổi chữ
"thu thanh" thành "trang thanh" (tiếng đóng cọc), nhằm đối
"chỉnh hơn" với chữ "kiếm khí" (hơi gươm kiếm) của vế thứ
nhất. Chữ "trang thanh", về mặt nghĩa còn dụng ý nhắc lại dư âm trận
chiến đóng cọc gỗ tiêu diệt đạo đại thủy binh Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng của
Hưng Đạo Đại Vương. Tiếp đó, trong bài viết đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1 năm
1987, nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân cũng dè dặt hoài nghi chữ "thu
thanh" và đưa ra đề nghị "đính chính" bằng chữ "thung
thanh", cũng có nghĩa là "âm
vang cây cọc". Ông cho rằng đôi câu đối, khi được khắc lên cổng đền đã bị
ghi nhầm chữ "thung" ra chữ "thu". Lập luận chính của Nguyễn
Quảng Tuân là: "Chữ "kiếm" đối với chữ "thung" chỉnh
hơn là với chữ "thu", vì "kiếm" và "thung" đều là
vật "cụ thể", còn "thu" chỉ là "trừu tượng" mà
thôi". Ngoài ra, về âm đọc, chữ này được đọc bằng hai âm, đọc
"thung" thì có nghĩa là đánh đập, đọc là "chang" thì có có
nghĩa là cái cọc. Do đó, trong bài viết, Nguyễn Quảng Tuân đề xuất chọn cách đọc
thành "chang thanh", sửa đôi câu đối thành:
Vạn
Kiếp hữu sơn giai kiếm khí,
Lục
Đầu vô thủy bất chang thanh
Bức
xúc và gay gắt hơn, giữa năm 1995, trên tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam,
nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng đã thẳng thắn đề nghị "đục bỏ đôi câu đối của
Vũ Phạm Hàm trên cổng đền Kiếp Bạc, ngõ hầu tránh được một sai lầm đáng tiếc".
Lập luận mà ông đưa ra là "đoán rằng Thám Hoa Vũ Phạm Hàm thì không sai,
nhưng khi đọc cho thợ ngõa đắp chữ lên cổng đền, người thợ có thể đã nghe
sai". Chữ dùng đúng, theo ông chỉ là một trong hai, hoặc là "thung
thanh", hoặc là "trang thanh", đều hàm nghĩa "âm vang cọc gỗ".
Do gần giống về mặt âm, có thể người thợ đắp chữ đã nghe nhầm nên đắp chữ
"trang", hoặc chữ "thung" thành chữ "thu", vừa
không chỉnh đối, vừa rất… lạc nghĩa. Lập luận "nghe nhầm" này, trước
đó đã được đưa ra bởi một bậc thức giả khác là Giản Chi. Ông cho rằng: "Nếu
là "thu thanh" thì sông nào chẳng có "tiếng thu" khi gặp
gió lớn sóng to. Nếu là "thung thanh" thì chỉ có sông Bạch Đằng (Lục
Đầu) mới có tiếng đóng cọc mà thôi" (chỉ
sự kiện Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán năm 939 và Trần Hưng Đạo đại phá
Nguyên Mông năm 1288). Vả chăng, hai chữ
"thung thanh" cũng không hoàn toàn do những người có ý kiến
bài xích chữ "thu thanh" sau này tự nghĩ ra. Nó đã đã được tìm thấy
trong bài văn tế bằng chữ Hán vẫn thường đọc ở các đền thờ Trần Hưng Đạo vào
ngày 20 tháng 8 Âm lịch hằng năm:
Sinh
tiền bất hủ chi tâm, giang thung thu ngật,
Tử
hậu lẫm như chi khí, hạp kiếm lôi minh.
Dịch nghĩa:
Khi
còn sống, trái tim bất hủ, cọc giữa dòng sừng sững dưới trời thu.
Lúc
đã mất rồi, lẫm liệt khí thiêng, kiếm trong tráp khua vang như sấm dậy.
Nhưng
ý kiến chọn chữ "trang", chữ "thung" thay cho chữ
"thu" lại được rất nhiều người
ủng hộ, trong đó có học giả An Chi với bài trả lời, giải thích cho độc giả in
trên Tạp chí Kiến thức thức ngày nay vào cùng năm 1995, được in lại trong sách
"Chuyện Đông chuyện Tây" tái bản nhiều lần.
Xem
ra, phái ủng hộ "thung thanh" (hoặc "trang thanh") và
"chê" chữ "thu thanh", hơn nửa thế kỷ qua quy tụ toàn những
bậc thức giả tên tuổi lẫy lừng. Trong khi đó, phái cương quyết giữ lại chữ
"thu thanh", tuy cũng quy tụ không ít tên tuổi, song tiếng nói bảo vệ
và phản bác đều có vẻ yếu ớt, mơ hồ và
ít thuyết phục hơn. Những phát biểu này thường đơn lẻ và chỉ dừng lại ở mức
"bàn", chưa thật sự đưa ra được nhiều lập luận thuyết phục một cách
có hệ thống. PGS - TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học) đánh giá rằng nếu dùng chữ
"thung thanh" thay cho chữ "thu thanh" thì đó "không
còn là chữ nghĩa của bậc đại khoa" như cụ Thám hoa Vũ Phạm Hàm nữa. Tác giả
Nguyễn Khắc Bảo, trong Thông báo Hán Nôm năm 1998 cho rằng từ "thu
thanh" trong câu đối thì "thu" là mùa thu, với nghĩa hàm súc là
để chỉ chiến tranh và đau thương tang tóc. Hiểu theo nghĩa này, "thu
thanh" có thể hiểu là "tiếng đau thương, tang tóc", hoặc
"tiếng binh đao" đối với "hơi gươm kiếm" ở vế trên tỏ ra
khá chuẩn cả về chữ lẫn nghĩa.
Thực
tế, chữ "thu thanh" hiểu theo nghĩa này cũng đã từng được nhiều người
sử dụng. Tuy nhiên, khá hiếm hoi, dường như chúng tôi thấy chỉ có hai người,
nhà Hán học Tảo Trang Vũ Tuân Sán trong bài "Lại bàn về "thu
thanh" hay "trang thanh" (Tạp chí Hán Nôm số 2/13-1992) và PGS Sử
học Tạ Ngọc trong bài "Kiếm khí - Thu thanh" trên Tuần báo Văn nghệ số
387 ra ngày 17-9-2000 là có đề cập thẳng vấn đề cốt lõi: "Tiếng thu là tiếng
gió tây làm rụng lá vàng, ý nghĩa đặc biệt của nó được ghi ở bài phú nổi tiếng:
"Thu thanh phú" (Phú tiếng thu) của Âu Dương Tu đời Tống".
Năm
1995, trong bài "Trao đổi với nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Xứng" đăng
trên Báo Văn nghệ, chúng tôi cũng đã đề cập đến và giải thích khá kỹ lưỡng điển
cố "thu thanh" rút từ "Thu thanh phú" của Âu Dương Tu
(1007-1072).
Chúng
tôi cho rằng, dù sắc bén đến mấy, tác giả Hoàng Hữu Xứng (người gay gắt và bức
xúc hơn cả) vẫn chưa chính xác khi dùng chữ "đoán rằng" trong một lập
luận nghiên cứu. Việc "nghe nhầm", hiểu sai ý Vũ Phạm Hàm của người
thợ ngõa mà dẫn đến đắp sai đôi câu đối, theo chúng tôi hoàn toàn không có khả
năng xảy ra. Bởi lẽ, rất có thể, người thợ không nhất thiết phải biết chữ. Họ
chỉ việc ngõa chữ theo văn bản đã được Vũ Phạm Hàm hay bậc túc nho văn hay chữ
đẹp nào đó viết chữ sẵn, không cần biết mình đang khắc, ngõa chữ gì. Mặt khác,
nôm na thì công trình nào cũng phải có nghiệm thu. Nếu người thợ khắc, ngõa chữ
có nghe nhầm chữ "thung" thành chữ "thu" thì hẳn sau đó,
khi nghiệm thu, sai sót này đã được phát hiện và sửa chữa. Sai sót đó không có
lý do để tồn tại thêm hơn 100 năm. Như vậy, nếu chữ "thu thanh" đã tồn
tại trên đôi câu đối trước đền Kiếp Bạc, trước án thờ đền Trần Hưng Đạo ở TP Hồ
Chí Minh, thì đích thực đó là chữ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm với đầy đủ sự chính
xác của nó.
Trong
phần đầu bài "Thu thanh phú", Âu Dương Tu mô tả: "Dị tai! Sơ
tích lịch dĩ tiêu táp, hốt bôn đằng nhi phanh vi; như ba đào dạ kinh, phong vũ
sậu chí; kỳ xúc ư vật dã, thung thung tranh tranh, kim thiết giai minh; hựu như
phó địch chi binh, hàm mai tật tẩu, bất văn hiệu lệnh, đãn văn nhân mã chi hành
thanh".
Trần
Trọng San dịch: "Lạ thay! Lúc đầu rì rầm, vi vu, rồi chợt sầm sập, mạnh mẽ,
như sóng nước kinh động ban đêm, gió mưa thổi đến thình lình, chạm vào vật leng
keng, loảng xoảng, tiếng vàng, tiếng sắt kêu vang, lại như đoàn quân tiến đến
hàng ngũ địch, ngậm tăm chạy mau, không nghe thấy hiệu lệnh, chỉ nghe thấy tiếng
người, ngựa đi".
Nghe
những âm thanh đó, Âu Dương Tu chợt hiểu ra: "Dư viết: "Y hy! Bi tai!
Thử thu thanh dã, hồ vi hồ lai tai! Tôi (Âu Dương Tu) nói rằng: "Than ôi!
Thương thay! Đó là tiếng thu, sao lại vọng đến đây". Ở đoạn giữa bài Phú,
Âu Dương Tu giải thích: "Phù thu, hình quan dã, ư thì vi âm; hựu binh tượng
dã, ư hành vi kim. Thị vị thiên địa chi nghĩa khí, thường dĩ túc sát nhi vi
tâm". Trần Trọng San dịch: "Thu là hình quan, nói về bốn mùa là âm; lại
là binh tượng, nói về năm hành là kim. Đó là cái nghĩa khí của trời đất, thường
lấy sự giết hại làm lòng".
Chúng
tôi nghĩ rằng, vậy là đã rõ, chữ "thu thanh" không chỉ hiểu đơn thuần
là "tiếng mùa thu", nhẹ và lạc nghĩa rất xa so với "hơi gươm kiếm".
Trong cách luận của Âu Dương Tu thì "thu binh thỉ dã" (mùa thu tức là
mùa binh vậy), chữ "thu thanh" điển cố rút từ "Thu thanh
phú" cần được hiểu là "tiếng đao binh", đối rất sát với chữ "kiếm
khí" (hơi gươm kiếm). Với một bậc đại khoa như Vũ Phạm Hàm, việc sử dụng
nhuần nhuyễn một điển cố như chữ "thu thanh", hẳn nhiên không phải là
quá khó, cũng không hề là việc xa lạ.
"Hơi
gươm kiếm" đối với "tiếng đao binh", chữ nghĩa quá tuyệt vời. Một
đôi câu đối đã tồn tại hơn trăm năm, đã góp phần tạo thêm một nét cảm thức dân
tộc, thiết nghĩ không nhất thiết phải tốn giấy mực tranh luận, lại càng không
nên vì sự suy diễn, phỏng đoán mà thay đổi hay đục bỏ. Đó cũng là cách
"ngõ hầu tránh một sai lầm đáng tiếc" cho hậu thế vậy!
Nguyễn Hồng Lam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét