KÍNH
THƯA QUÝ BẠN!
Vấn
đề nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc do chúng tôi nghiên cứu, cần được thông tin đầy
đủ đến bạn đọc. Chúng tôi đã viết trong sách VỪA ĐI VỪA NGHĨ.
Có
một số bạn đã đọc rất kỹ. Một số bạn đọc qua loa, còn một số bạn chưa lấy làm
thoả mãn. Có vài vị phản ứng quyết liệt. Đó cũng là điều bình thường trong
nghiên cứu khoa học!
Để
phần nào đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi đã có bài viết TỔNG LUẬN, khá
dài. Xin đăng trên báo nhà để bạn đọc thưởng lãm. Đa
tạ!
TỔNG LUẬN VỀ NHÂN VẬT LỊCH
SỬ TRẦN ÍCH TẮC
1.
Trong
kho báu thơ văn đời Trần (1225-1400) còn lại đến ngày nay, vẫn còn đó thơ ca của
một vị Hoàng tử được người đương thời đánh giá là xuất sắc nhất về mọi phương
diện. Đó chính là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc (1254-1329) . Ông nổi bật lên
trong số các vị Hoàng tử con vua Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277). Vậy mà cuộc đời
ông, danh phận của ông lại chìm nổi ba đào là vì sao?
Nhưng
bà mẹ nào đã sinh ra Trần Ích Tắc, thì ngay cả bộ sách sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN
THƯ (ĐVSKTT) do Ngô Sĩ Liên ở đời Hậu Lê chủ biên, cũng không thấy chép. Mãi
vài chục năm gần đây, người ta mới tìm thấy tấm bia cổ tại làng Miễu, huyện Nam
Trực, tỉnh Nam Định, mới hay rằng, bà Vũ Thị Vượng, quê ở đây, chính là người
đã sinh ra các vị Hoàng tử Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc Vương
Trần Ích Tắc, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255-1330).
Bà
Vũ Phi (Vũ Thị Vượng) là bà Phi thứ 5 của vua Trần Cảnh, sinh hạ được ba người
con trai, trong đó, ít nhất, cũng đã có 2 người xứng đáng được tôn vinh là bậc
thiên tài. Đó là Trần Ích Tắc và Trần Nhật Duật… Riêng Chiêu Đạo Vương Trần
Quang Xưởng thì chưa thấy rõ hành trạng. Chúng tôi chỉ được thấy sử sách ghi
câu chuyện một người làm việc biên chép ở phủ đệ Chiêu Đạo Vương là Nguyễn Đại Phạp. Đại Phạp
sau được triều đình cử đi sứ sang nhà Nguyên, có gặp Trần Ích Tắc ở đó.
Sách
ĐVSKTT và miệng lưỡi cay độc của người đời sau, tiêu biểu nhất nhất là ông
GS-TS Mai Quốc Liên, đã chép và nói về Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc như một kẻ
hèn nhát đã bỏ nước chạy sang hàng Mông Nguyên. Lý do đơn giản vì Chiêu Quốc
Vương cho rằng mình tài cao hơn tất cả các Hoàng tử mà không được làm vua, cho
nên “bất mãn” đem cả gia quyến chạy sang hàng giặc. Sử sách chép như vậy đấy.
Miệng lưỡi cay độc của người đời sau như vậy đấy! Và nếu chúng ta cả tin vào
câu chữ lạnh lùng vô cảm của sách vở này, mà không cẩn thận suy nghĩ, thì sao
biết được phía sau cái sự thật hiển nhiên nhìn thấy đấy, được chép như đinh
đóng cột vào sách vở đấy, hoá ra, chẳng phải là ngây thơ lắm hay sao?
Một
vị Hoàng tử, cho dù là rất giỏi, mà chỉ là con một bà Phi (Vũ Phi), thì làm gì
“có cửa nào” mà mơ ước được ngồi lên ngai vàng ở triều Trần, mà “bất mãn” chạy
sang hàng Mông Nguyên? Thật nực cười!
Trong
khi ấy, thiết chế nhà Trần đã rất chặt chẽ và ổn định. Thái tử phải là con bà
Hoàng hậu, chính thất, mới được kế vị ngôi vua. Vua cha nhường ngôi cho Thái tử,
lên làm Thượng hoàng, nhưng vẫn có quyền kiểm soát chính trường, có quyền phế
truất vua con, nếu như vua con tỏ ra không xứng đáng. Chiêu Quốc Vương Trần Ích
Tắc còn có cơ hội nào nữa mà đòi được làm vua? Như vậy, việc sử sách chép như vậy,
chẳng phải là hết sức phi lý hay sao?
Quy
chế hai vua (nhị thánh) đã được triều Trần rút kinh nghiệm từ bài học đau lòng
đã từng xảy ra trước đó, ở giai đoạn đầu của triệu Hậu Lý.
Chúng
tôi đã tiến hành nghiên cứu về nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc, nghiền ngẫm suy
tư cả chục năm trời. Và đã có những kiến giải khá đầy đủ, nhằm chiêu tuyết,
minh oan cho nhân vật lịch sử vĩ đại, trong những vấn đề tưởng như đã thấy, đã
rõ, đã mặc định, mà thực ra hoàn toàn không phải như vậy!
2.
Chúng
tôi cho rằng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là một thiên tài trác việt. Ông đã
thành công rất lớn trong nhiệm vụ trá hàng, leo thật cao, chui thật sâu vào đội
ngũ lãnh đạo nhà nước Mông Nguyên, do Hốt Tất Liệt cầm đầu. Ông được lãnh đạo tối cao nhà Trần tin tưởng,
giao trọng trách hoạt động đơn tuyến này, là bởi chính ông (Trần Ích Tắc) mới
là người xứng đáng nhất, tài năng nhất, có thể đảm nhiệm đại nghiệp đặc biệt
này, trong hoàn cảnh cuộc chiến chống Mông Nguyên liên tiếp diễn ra rất quyết
liệt, một mất một còn. Đó chính là một chiến lược tình báo hết sức tinh vi, được
tổ chức lần thứ 2, sau vụ Hoàng tử Trần Nhật Duy được triều Trần cử làm con tin
lên Mông Cổ. Cái Tên Ích Tắc (người sẽ giúp ích cho giang sơn xã tắc) họ Trần
do chính cha mẹ ông (vua Thái Tông Trần Cảnh và bà Vũ Phi Vũ Thị Vượng) đặt
cho, chính là sự kỳ vọng lớn về đứa con thông minh tài giỏi nhất trong số các Hoàng
tử con vua. Trần Ích Tắc sẽ đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp cứu
giúp, bảo vệ triều Trần và đất nước Đại Việt.
Số
là, trong 6 điều khoản mà Mông Cổ yêu sách Đại Việt trước khi chúng tấn công,
có điều khoản Đại Việt phải đưa Thái tử đến Mông Cổ làm con tin.
Sau
cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258), mặc dù là kẻ chiến
thắng, nhưng nhà Trần đã buộc phải dùng kế sách mềm dẻo, chấp nhận yêu sách
này. Mà không chỉ Đại Việt. Hầu hết các nước từ Á đến Âu, từ Âu về Á, đều phải
chấp nhận yêu sách này của Mông Cổ, nếu không muốn bị tiệu diệt hoàn toàn.
Triều
Trần đã thực hiện kế sách “tát nước theo mưa”, bèn tổ chức một vụ tình báo chiến
lược. Một đoàn người đưa Hoàng tử trưởng Trần Nhật Duy đến Mông Cổ làm con tin.
Kết quả, đoàn tình báo “con tin” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia rẽ nội bộ
Mông Cổ, khiến chúng đánh nhau mù trời. Nội bộ chúng đánh nhau càng lâu càng tốt.
Lại còn phải giúp Tống đánh nhau với Mông Cổ, càng lâu càng tốt. Kết quả là, gần
ba mươi năm sau, Mông Cổ mới có thể rảnh tay tiếp tục nhòm ngó xuống phương Nam
để báo thù. Đại Việt có thời gian gần ba chục năm củng cố, phát triển đất nước
về mọi mặt, sẵn sàng đối đầu với quân xâm lược Mông Cổ lần thứ 2…
Ngay
trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 3 (1288), triều Trần còn tổ chức
một cuộc trá hàng nữa, rất thành công. Đó chính là cuộc trá hàng chiến thuật của
Hưng Ninh Vương Trần Tung (anh trai của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn). Trần
Tung vào doanh trại Thoát Hoan hẹn xin hàng. Nhưng ngay đêm hôm đó, ông đã dẫn
quân tinh nhuệ tập kích doanh trại Chủ tướng Thoát Hoan, khiến quân Mông Nguyên
tan rã, phải rút chạy về nước. Trận đánh kỳ công trá hàng này, sách ĐVSKTT có
chép.
Cũng
nên hiểu rằng, Vân Nam Vương Thoát Hoan, lại là con rể của vua Trần. Công chúa
An Tư làm vợ Thoát Hoan, đã sinh hạ được 2 người con. Sự hoà huyết vô tình hay
hữu ý đó, hay do trời định đó, cũng đã góp phần không nhỏ, để tạo nên mối quan
hệ rất tế nhị của Đại Việt và Mông Nguyên. Đương nhiên, cũng góp phần nào đó
trong đại nghiệp của Trần Ích Tắc ở triều đình Mông Nguyên. Không có gì là
không thể!
Ở
triều Hậu Lý, các vua nhà Lý cũng thường dùng kế sách gả công chúa cho các vị
tù trưởng vùng biên cương xa xôi. Các công nương ấy về làm vợ các tù trưởng,
khiến quan hệ giữa triều đình với vùng biên ải gắn kết hơn. Đương nhiên, các
công nương lá ngọc cành vàng, cũng phải được dặn dò gì đó, ví như việc phải
luôn để ý đến thái độ của các ông chồng tù trưởng. Nếu như có biến, thì các
công nương cũng buộc phải thông tin cho triều đình, không thể khác.
Công
chúa An Tư làm vợ Thoát Hoan, nhưng chắc chắn cũng không đơn giản chỉ là việc hầu
hạ ông ta sinh con đẻ cái cho ông ta đâu. Kể cả Huyền Trân công chúa sau đó
cũng vậy!
Có
thể nói ngay rằng, trong các triều đại phong kiến và quân chủ chuyên chế, triều
đại nhà Trần trong sự nghiệp chống Mông Nguyên là oanh liệt vẻ vang nhất. Tất
nhiên, triều đại nhà Trần cũng đồng thời là triều đại thành công nhất trong nghệ
thuật tình báo chiến lược và cả chiến thuật. Thời kỳ chống thực dân Pháp và đế
quốc xâm lược Mỹ, dân tộc ta vẫn kế thừa, tiếp nối một cách rất thành công nghệ
thuật tình báo tuyệt vời của cha ông.
Một
số nhà nghiên cứu, khi đọc sách VỪA ĐI VỪA NGHĨ của Vũ Bình Lục, do chưa đọc
chu đáo, hoặc giả do kiến văn hạn hẹp, cho nên vẫn còn một số vấn đề, một số
chi tiết các vị ấy cảm thấy chưa thật tỏ tường, nên chưa hoàn toàn đồng thuận.
Đó cũng là điều đơn giản và thường tình. Là bởi đối tượng thẩm mỹ, đối tượng tiếp
nhận văn bản của bạn đọc cao thấp khác nhau.
Ở
bài viết này, chúng tôi xin nói rõ thêm về một số vấn đề các bạn quan tâm, chưa
cảm nhận hết.
A
ĐÂY LÀ MỘT VỤ TÌNH BÁO CHIẾN
LƯỢC CỰC KỲ QUAN TRỌNG, DO LÃNH ĐẠO NHÀ TRẦN TỔ CHỨC. LẦN THỨ 2, SAU VỤ TÌNH
BÁO CHIẾN LƯỢC DO VŨ UY VƯƠNG TRẦN NHẬT DUY DẪN ĐẦU, SANG LÀM CON TIN Ở MÔNG CỔ
(1258)
Chúng
ta phải xuất phát từ góc nhìn ở tầm vĩ mô về các phạm trù Địa-Chính trị, Địa-Quân
sự, Địa-Văn hoá, Địa-Lịch sử… và cũng phải mở rộng tầm quan sát, mở rộng phạm
vi nghiên cứu toàn cảnh, liên ngành, liên văn bản rộng lớn, sang cả bên kia
biên giới hiện tại giữa nước ta và Trung Quốc ngày nay, để biết rằng, lãnh thổ
nước ta (Nam Việt) từ thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), sau đó là của nước Lĩnh Nam,
do Hai Bà Trưng giành lại chủ quyền từ tay nhà Hán, bao gồm cả Lưỡng Quảng và
quần đảo Hải Nam Trung Quốc chiếm đóng ngày nay. Và cũng phải có nguồn tư liệu
phong phú, mới mẻ, thì mới có thể lý giải được các vấn đề lịch sử bấy lâu chưa
được tỏ tường.
1.
Tại
sao thi nhân Trần Ích Tắc được nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) sống ở thời
Lê-Trịnh tuyển đưa thơ của Trần Ích Tắc vào bộ sách TOÀN VIỆT THI LỤC, một bộ
tuyển thơ lớn nhất của người Việt ta cho đến cả ngày nay?
Bộ
sách vĩ đại này, được tác giả dâng trình lên vua Lê, chúa Trịnh, và được chính
quyền đương thời hết sức khen ngợi, ban thưởng lớn. Bộ sách tất nhiên được vua,
chúa ban lệnh cho khắc in, lưu trữ vào thư khố quốc gia để bảo tồn và phổ biến,
truyền lưu trong toàn quốc, cho đến tận ngày nay.
Như
vậy, nhà thơ Trần Ích Tắc ở đời Trần, vẫn có quốc tịch Đại Việt đấy chứ? Chẳng
phải là Chiêu Quốc Vương họ Trần đã hiển nhiên mang hai quốc tịch Đại Việt và
Mông Nguyên đó sao? Chẳng phải là luật pháp Đại Việt đã rất rõ ràng đó sao? Đó
chẳng phải là TÍN HIỆU QUAN TRỌNG NHẤT, có tính pháp lý nhất, để người đời sau
phải tỉnh táo suy tư, để nhận biết sự thật về Trần Ích Tắc trong thấp thoáng
huyền ảo, mà rất hiện thực đấy ư? Điều này, tưởng như ai cũng biết, mà chưa, hoặc
không hề biết vậy!
Thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, một số nhà tình báo
chiến lược cách mạng, như các ông Vũ Ngọc Nhạ, Đặng Trần Đức, Phạm Xuân Ẩn, Phạm
Ngọc Thảo v.v…Chẳng phải là các ông ấy cũng mang hai quốc tịch VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ, và VIỆT NAM CỘNG HOÀ đó sao?
Do
đó, về mặt lý thuyết hoàn toàn không thể chối cãi, rằng Chiêu Quốc Vương Trần
Ích Tắc, chính là một nhà tình báo chiến lược, đơn tuyến, được lãnh đạo nhà Trần
giao phó, theo dõi, chỉ đạo và thường xuyên liên lạc đó sao?
2.
Nhà
thơ Mỹ gốc Nga JOSEPH BRODSKY, giải Nobel văn học năm 1987 đã nói: “Để hiểu được
một con người, một dân tộc từ ngàn năm trước, thì chỉ có thơ ca mới làm được điều
đó mà thôi”!
Nhà
bác học Lê Quý Đôn ở nước ta cũng đã nói: “Những việc chính sử ghi chép, cho dù
là hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được”!… “Kẻ đọc sách có
thể chỉ căn cứ vào văn, mà không xem xét đến thực tế được chăng?”.
Chúng
tôi lấy câu nói của nhà thơ JOSEPH BRODSKY và nhà sử học Lê Quý Đôn, làm kim chỉ
nam cho các nghiên cứu, giải mã hàng ngàn bài thơ chữ Hán của cha ông ta, suốt
cả ngàn năm lịch sử. Và thực tế, chúng tôi đã căn cứ vào việc giải mã thơ ca, để
dựng lên hình ảnh chân thực nhất về một số nhân vật lịch sử, một số tác giả, lấp
đầy những khoảng trống, khoảng mờ, khoảng tối trong lịch sử dân tộc biết bao
thăng trầm, dâu bể, mà các sách sử không thể làm được.
Trong
thực tế, chúng tôi đã giải mã hàng ngàn bài thơ chữ Hán, chữ Nôm Đại Việt, đã dựng
lại chân dung đích thực của các thi nhân trong quá khứ. Ví như Trương Hán Siêu,
Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Nhữ Dực và cả ông Tiến sĩ Nguyễn Vận Đồng, từng 3 lần đỗ
đầu, mà chính sử không thấy chép một câu nào. Sách THƠ VĂN LÝ-TRẦN, do Viện Văn
Học biên soạn, cũng chỉ chú thích rằng “chưa biết hành trạng của ông Nguyễn Vận
Đồng”.
Thế
là sao? Là bởi ông Nguyễn Vận Đồng từng làm việc ở viện Hàn Lâm, sau ra làm Tri
Phủ phủ Tân An. Một thời kỳ cuối Trần, Hồ, thuộc Minh rất hỗn loạn, nước ta
không có sử quan. Sách vở của người Việt, đã bị giặc Minh cướp phá, tiêu huỷ hết.
Qua việc giải mã thơ chữ Hán của ông Phạm Nhữ Dực, chúng ta mới biết rõ hành trạng
của ông Nguyễn Vận Đồng và của chính danh nhân Phạm Nhữ Dực…
Đại
thi hào Nguyễn Trãi, Thánh Thơ Cao Bá Quát cũng nằm trong trường hợp đó! Không
có thơ ca của các nhân vật lịch sử, làm sao có thể dựng lại chân dung của họ?
3.
Có
ý kiến cho rằng, lấy thơ ca để giải mã chân dung nhân vật lịch sử, chỉ là nhận
thức cảm tính, nhiều khi sai lệch, không thể lấy đó là điều có thể tin cậy được.
Chính vì điều này, mà một số vị trí thức có hàm vị cao, mà kiến văn hạn hẹp,
cũng không làm sao hiểu được.
Điều
này có vẻ đúng, nhưng cũng chưa đúng, bởi mấy điểm sau:
Người
xưa định nghĩa về thơ, rằng “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ để diễn đạt, để trình bày
cái chí của người quân tử chính danh), “Văn dĩ tải đạo” (Văn để chuyên chở cái
đạo) của thánh hiền.
Các
nhà Nho thi nhân đời trước làm thơ để nói cái chí của mình. Thơ có thể được khắc
in, nếu nhà thơ có tiền và đương nhiên, phải được nhà vua cho phép. Các nhà Nho
vốn nghèo, làm thơ để lưu lại cái chí của mình, cái tâm sự thầm kín của mình,
cho con cháu trong nhà. Tác phẩm của các cụ được lưu giữ trong rương trong hòm,
chứ đâu phải để đăng báo, để in sách dễ dàng như ngày nay? Vậy nên, tiếng lòng
của thi nhân trong thơ đời xưa là hoàn toàn chân thực, hoàn toàn khả tín.
Tiến
trình tâm lý chẳng phải bắt đầu từ nhận thức cảm tính, rồi đến nhận thức lý
tính đấy ư? Nếu thơ ca của Trần Ích Tắc chưa thể tin cậy được, thì xin hỏi rằng,
các bài thơ TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ (Hộ giá vua về kinh sư) của Thái sư Trần
Quang Khải, THUẬT HOÀI của Phạm Ngũ Lão, BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ (Bài phú về sông Bạch
Đằng) của Trương Hán Siêu v.v… đều
không đáng tin cậy cả hay sao? Chả lẽ, quý vị làm sách giáo khoa lại đưa cái sự
“chưa đáng tin” ấy vào nhà trường để cho con cháu chúng ta học tập hay sao?
Người
đời sau, có thể từ thơ ca mà hình dung ra cốt cách, hành trạng tác giả, qua đó
mà biết thêm được nhân tình, thế thái, liên quan đến lịch sử xã hội đương thời.
Chỉ đến thời kỳ quân chủ chủ chuyên chế, Nho giáo mới có phần biến dạng và tha
hoá, cho nên, mới có chuyện không đáng tin ở bài thơ này, hay bài thơ khác. Có
thể không đáng tin ở nhân vật này, hay nhân vật khác.
Ngày
nay, do sự hoà nhập của thế giới công nghiệp hoá, thế giới phẳng, số hoá, cho
nên, nhân diện con người cũng thay đổi theo. Hay nói cách khác, con người tự
tha hoá, hoặc tiến lên do những sản phẩm công nghệ của chính mình làm ra. Khi
đàm đạo về thơ ca ngày nay, có bạn nói vui rằng, thơ ngày nay chủ yếu là “yêu đểu”,
“khóc đểu”, “cười đểu” “khen đểu”… Con người “no ăn ấm cật”, có kẻ giàu sang thừa
thãi trong nhung lụa, thì làm gì còn THƠ nữa? Điều này khác hẳn với thơ xưa,
như các bậc tiền nhân nói: “Thơ có cùng mới hay”. Thi nhân đau đớn thật, cùng
khốn thật, đói rách khổ nhục đến tận cùng, mới có thơ hay… Thơ Đỗ Phủ ở đời Đường bên Tàu, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Cao Bá Quát và nhiều tác giả khác ở Việt Nam là minh chứng sinh động
cho điều đó…
4.
Về
tính chân thực đến đâu của các bộ sách sử, cho dù là hoàn hảo đến đâu, cũng
không thể hoàn toàn tin theo được, như Lê Quý Đôn đã nói. Chúng tôi hoàn toàn
tán thành quan điểm này. Đơn giản vì ở nước ta, các sử quan thường “ăn cây nào rào
cây ấy”. Những người chép sử, dạy sử đời sau thì cứ thế mà tin theo. Sự thật lịch
sử bị họ làm cho méo mó, sai lệch, đôi khi đến mức tệ hại.
Ví
dụ, sử quan triều Lê-Trịnh thì bôi xấu triều Mạc, xoá sạch những thành quả tốt
đẹp về triều Mạc. Lại ví như sử quan triều Nguyễn thì xoá sạch những thành tựu
vĩ đại của nhà Tây Sơn. Những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, những
thành tựu chính trị tốt đẹp của triều trước, phần lớn đều bị triều đại tiếp
theo phá sạch. Những hành vi hàm hồ vô lối, vô trách nhiệm với đất nước, với
văn hoá, với lịch sử dân tộc, với người đời sau như vậy, khiến cháu con hoang
mang, chả biết đâu mà lần.
Các
bộ sách gọi là “chính sử”, còn có bao nhiêu phần trăm sự tin cậy? Chẳng phải là
đáng buồn lắm hay sao? Thế nên, những tài liệu lịch sử, cho dù là hoàn hảo đến
mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được. Mà đã chưa tin, không tin, thì phải
khảo cứu biện giải cho rõ ràng. Đó chính là thiên chức của những nhà nghiên cứu
có trách nhiệm, có bản lĩnh đời sau vậy!
Và
bởi vậy, thơ ca mới chính là nguồn tư liệu quan trọng nhất, đáng tin cậy nhất,
để có thể dựng lên chân dung đích thực của lịch sử, của con người cá nhân, bản
thể, bản ngã trong lịch sử.
Với
nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc ở triều Trần, cũng không là ngoại lệ.
5.
Một
số bạn còn thắc mắc, rằng tại sao các vua Trần đời sau sao không thấy minh oan
cho Trần Ích Tắc? Chúng tôi đã nói rồi, nhưng xin được nói rõ thêm.
Thứ
nhất:
Những
người lãnh đạo, tổ chức vụ trá hàng để đưa Trần Ích Tắc leo thật cao, chui thật
sâu vào tầng lớp lãnh đạo Mông Nguyên, khởi đầu là Thượng hoàng Trần Thánh
Tông, vua Trần Nhân Tông và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
(Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang toàn quốc). Không thấy có văn bản nào ghi
lại chi tiết này. Ai biết mà ghi? Ai được phép ghi chép bí mật quốc gia tuyệt đối
này? Cũng lại ví như các nhà tình báo chiến lược của nước ta thời chống Pháp và
chống Mỹ xâm lược, ai có có quyền và có trách nhiệm được biết về hành trạng của
họ?
Sử
quan đương thời chỉ có thể ghi chép được “những điều trông thấy” mà thôi. Nhưng
từ thơ ca được xem như là di ngôn cực kỳ quan trọng của Trần Ích Tắc để lại, đối
chiếu với diễn biến lịch sử đã thấy, chúng ta có thể hình dung sự thật chắc chắn
như vậy. Ngoài Trần Ích Tắc ra, không ai khác có thể đảm đương được nhiệm vụ cực
kỳ quan trọng này.
Chiêu
Quốc Vương trẻ tuổi, văn võ song toàn, lỗi lạc. Ở cuộc kháng chiến chống Mông
Nguyên lần thứ 2 (1285), ông đã được phong chức PHIÊU KỴ ĐẠI TƯỚNG QUÂN, trấn
giữ tuyến phòng thủ thứ 2 ở đoạn Bạch Hạc cận kề Thăng Long. Trong khi đó, Trần
Nhật Duật (em trai Trần Ích Tắc) trấn giữ tuyến đầu ở phía Tây Bắc biên giới.
Trần Ích Tắc còn đứng bên vua tham mưu tác chiến, trước khi ông “đào tẩu” sang
Nguyên Mông, vào ngày 15-3-1285.
Để
chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch trá hàng, Trần Ích Tắc đã ngầm viết thư xin hàng
gửi Hốt Tất Liệt, mấy lần, trước khi ông “đào tẩu” một cách ngoạn mục theo kịch
bản phản gián. Do vậy, Trần Ích Tắc mới được Hốt Tất Liệt hoàn toàn tin tưởng
ngay, bèn trao cho ông chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ. Nếu như đột ngột đem
cả gia quyến chạy sang, dễ gì Hốt Tất Liệt đã tin, mà trao ngay cho ông trọng
trách lớn?
Chức
BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ là Tể tướng. Cứ xem đó như hàm Tể tướng, nhưng quan trọng
nhất, là ông được kiêm giữ chức quản lý vùng đất Hồ Bắc, Hồ Nam và Lưỡng Quảng
ngày nay (Hồ Quảng). Vùng đất này rất rộng lớn, từ phía nam sông Dương Tử, đến
tiếp giáp nước Đại Việt ta. Gần như là cả vùng đất đai xưa của nước Nam Việt ta
thời Triệu Vũ Đế và nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng giành lại quyền tự chủ. Quả
là một bước đệm thành công rất tuyệt vời. Nước Đại Việt nhỏ bé, đã ở ngay sau
lưng vùng đất do Trần Ích Tắc quản lý. Do đó, việc qua lại đôi bên thời đó
hoang vu, thưa người, rất thuận tiện. Sử ta còn chép việc vua Trần cử người
sang biên kia giả mua bán thuốc Bắc, để nắm tin và truyền tin về nước.
Ngay
như ở thời Trần, một số trường hợp quan chức cũng tương tự như vậy. Trương Hán
Siêu, nguyên là học trò thầy Trần Ích Tắc, giữ chức vụ rất cao trong triều,
nhưng cũng được kiêm giữ chức KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG, quản lý vùng biên cương
chiến lược phía Bắc. Tiếp đó là Nguyễn Trung Ngạn, cũng học trò cũ của Trần Ích
Tắc, vẫn có chức quan rất lớn trong triều, nhưng ông cũng được cử kiêm giữ chức
KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG, tiếp nối Trương Hán Siêu đã cao tuổi. Khi thôi giữ chức
KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG, Trương Hán Siêu 79 tuổi, được cử vào Hoá Châu, giữ chức
CHIÊU DỤ ĐẠI SỨ, để trấn an vùng đất Thuận Hoá vừa mới được ổn định. Thơ của
Trương Hán Siêu đã “kể rõ” điều đó! Không có thơ của các ông ấy để lại cho đời,
làm sao chúng ta biết được sự thật này?
Thời
Lê Sơ, Nguyễn Trãi được minh oan, được vua Lê Thái Tông phục hồi các chức vụ,
quyền ngang Tể tướng, nhưng ông vẫn được vua Thái Tông tin tưởng giao kiêm nhiệm
thêm chức vụ quản lý quân dân hai đạo vùng Đông Bắc, một vùng biên cương chiến
lược cực kỳ quan yếu của đất nước ở vùng Đông Bắc. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi ở thời
điểm này thể hiện rõ tinh thần hào sảng, phơi phới tự hào về đất nước anh hùng
rạng rỡ. Những kiệt tác văn chương như bài thơ BẠCH ĐẰNG HẢI KHẨU, chính là kết
quả của thời kỳ đó!
Như
vậy là Trần Ích Tắc đã làm chủ được một vùng đất rộng lớn, rộng gấp mấy lần nước
Đại Việt nhỏ bé. Với chức Tể tướng (BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ), Trần Ích Tắc đã có
quan hệ thân thiết với các ông HÀ NAM VƯƠNG, với ông Thái sư NGUYÊN PHỤC SƠ, tức
Nguyên Minh Thiện (1269-1322) và với cả các quan chức triều đình Mông Nguyên,
bao gồm những tinh hoa của các nước chư hầu như Triều Tiên, Nhật Bản, Miến Điện,
Nga và cả những quan chức người nước Tống bị người Mông Cổ tiêu diệt và thống
trị. Thân phận của họ, chẳng qua cũng chỉ là kẻ nô lệ, vì miếng cơm manh áo mà
phải cúi đầu nhục nhã trước Mông Cổ mà thôi.
Tuy
nhiên, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc chỉ xem mình như một vị sứ thần nước Đại
Việt, hiện đang có mặt ở triều đình Mông Nguyên. Thơ của ông đã thể hiện rất rõ
các mối quan hệ nói trên.
Thơ
Trần Ích Tắc có những bài thể hiện tấm lòng biết ơn chân thành của của ông, của
nước Đại Việt ta đối với vua Thiết Mộc Nhi (cháu nội Hốt Tất liệt). Là sao? Là
bởi vì trong quá trình làm quan với chức BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, Chiêu Quốc Vương
thường về Đại Đô (Bắc Kinh) “hầu hạ” vua Nguyên như một vị quan đại thần được Hốt
Tất Liệt sủng ái. Ông đã có tác động tâm lý khôn khéo như thế nào đó, theo kiểu
mưa dầm thấm lâu, để đến khi đăng quang ngôi Hoàng Đế, Nguyên Thánh Tông (Thiết
Mộc Nhi) đã lập tức ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng lần thứ tư của
Mông Nguyên xuống đại Việt ta.
Các
vị quan trong triều, phần đông là người Triều Tiên, Nhật Bản, Miến Điện và người
Tống, họ đã rất vui vẻ chúc mừng ngài Trần Ích Tắc. Thơ Trần Ích Tắc đã thể hiện
rất rõ điều đó.
Chiêu
Quốc Vương có một số bài thơ thể hiện niềm vui tột đỉnh của ông, khi vua mới
Thiết Mộc Nhi đăng quang và đồng thời ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm
lăng của Hốt Tất Liệt xuống Đại Việt. Sau khi nghe chiếu bãi binh, Trần Ích Tắc
từ Đại Đô (Bắc Kinh) lập tức phi ngựa về Vũ Xương (Vũ Hán), chắc là phủ đệ của
ông ở đó. Lòng ông vui sướng đến tột đỉnh như thế nào. Thơ ông đã thể hiện rất
rõ tâm trạng đó.
Đây
nhé:
Dịch
nghĩa:
Khi
gió thu thổi, ta ruổi ngựa theo hướng Vũ Xương,
Bỗng
nhớ mùa cam chín vàng đã xa, mùa cua đang béo.
Ở
điện vàng, vua Thuấn ban ơn mưa móc,
Nơi
điện ngọc, chư lão cho lời ngọc châu.
Gió
thổi vù vù trên mái tóc còn đọng tuyết,
Roi
ngựa ve vẩy, lay động cả ánh trời chiều.
Bầu
trời xanh biếc không mây, cánh hạc mỏi,
Hãy
theo chim nhạn mùa thu cùng bay về phương Nam.
Dịch
thơ
Gió
thu ruổi ngựa Vũ Xương,
Nhớ
quê cua béo cam đường thơm ngon.
Điện
vàng mưa móc ban ơn,
Ngự
tiền chư lão tặng thêm lời vàng.
Đầu
pha tuyết, gió quét ngang,
Vẩy
ve roi ngựa, ánh vàng long lanh.
Mệt
nhoài cánh hạc trời xanh,
Hãy
theo chim nhạn bay nhanh về nhà.
(VŨ
BÌNH LỤC dịch)
Đội
ơn vua mới Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông), là vì ông ấy đã có cái đức lớn, đức
cao của vua Thuấn, đã ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng của Mông
Nguyên xuống Đại Việt. Cái ơn vô cùng lớn ấy của vua Nguyên đối với Đại Việt
ta, chẳng phải là vô giá hay sao? Riêng với Chiêu Quốc Vương, lòng biết ơn của
ông với vua mới, biết lấy gì mà đo được?
Còn như các vị lão thần ở ngự tiền, họ cũng
bày tỏ lòng vui sướng, chúc mừng Trần Ích Tắc, chúc mừng Đại Việt thoát khỏi cuộc
chiến tranh chắc chắn là rất khủng khiếp. Trần Ích Tắc từ Đại Đô ra về, roi ngựa
vung vẩy “lay động cả ánh chiều”. Ông nhớ quê hương, muốn bay ngay về quê nhà
báo tin vui cho anh em, bà con, đồng bào yêu quý của mình. Tấm lòng ông sung sướng
như không sao có thể tả được.
Những người chả biết tý gì về thơ của Trần
Tích Tắc, như các ông Giáo sư Mai Quốc Liên và một vài ông có hàm vị cao khác ở
thời nay, lại bảo đó là thơ nịnh hót, thơ phản quốc, thì chẳng phải là hàm hồ,
ngây ngô lắm hay sao? Chúng tôi xin lỗi, mượn lời Chiêu Quốc Vương mà nói thẳng
thế đấy!
Toàn
bộ 15 bài thơ của Trần Ích Tắc, đối chiếu với sự thật lịch sử đã diễn ra, là rất
phù hợp với thực tế lịch sử, hoàn toàn có thể khiến chúng ta hình dung ra từng
bước đi của ông trong hoạt động thâm nhập sâu vào nội bộ triều đình Mông
Nguyên.
Người
đọc thơ, phải nhận ra cái điều gì đó “bất thường”, mà lại rất bình thường ở đây
chứ?
Một
vụ tổ chức tình báo chiến lược vô cùng tinh vi, hoàn hảo. Nhờ vậy, Đại Việt đã
đánh thắng Mông Nguyên một cách khá thuận lợi, dễ dàng, ở cuộc xâm lăng của
chúng lần thứ 3 (1288).
6.
Các
vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương, Thái sư Trần Quang
Khải, Hưng Ninh Vương Trần Tung, những người tổ chức và chỉ đạo vụ tình báo chiến
lược Trần Ích Tắc, rồi cũng lần lượt ra đi, mang theo những điều bí mật tuyệt đối
xuống cửu tuyền. Các vua đời sau, đương nhiên là không thể biết những huyền cơ
tuyệt mật quốc gia đó.
Vả
chăng, đây là kế hoạch đưa một bộ phận tinh hoa của người Đại Việt trở về quê
cũ của mình, để đánh địch từ xa, từ ngay trong lòng địch, từ chính trên quê
hương cũ của mình. Cuộc chiến với Mông Nguyên, không phải chỉ diễn ra một lần,
hai lần, ba lần, bốn lần và có thể 5 lần, nếu Hốt Tất Liệt còn sống và triều đại
Mông Nguyên không tan rã. Ai có thể minh oan cho Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc
được nhỉ? Sách vở nào ghi chép được những hoạt động âm thầm của nhà tình báo
chiến lược Trần Ích Tắc được nhỉ? Đến như kẻ hàng thần Lê Tắc, cũng chỉ biết được
“những điều trông thấy”, được ông ấy viết trong bộ sách AN NAM CHÍ LƯỢC hơn hai
mươi tập của ông ta mà thôi!
Tuy
nhiên, các vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương và ngay
cả Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc cũng đã để lại những di ngôn bằng thơ ca, những
tín hiệu vô hình rất cần thiết, vô cùng quan trọng, để người đời sau như chúng
ta có thể nhìn thấu sự thật mà rửa oan cho Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người
anh hùng vĩ đại của dân tộc ta!
7.
Sách
ĐVSKTT chép rằng, ngày 15-3-1258, Trần Ích Tắc đem cả gia quyến bỏ nước chạy
sang hàng nhà Nguyên. Đó là sự thật trông thấy, rất rõ ràng. Sử quan có thể ghi
chép sự thật đó, nhưng họ không thể “ghi chép” được hình bóng phía sau sự thật
đó. Hãy nghĩ mà xem, tại sao triều đình Đại Việt không bố trí quân mai phục ở
biên giới, để chặn đánh và giết chết Trần Ích Tắc? Hãy nghĩ kỹ mà xem!
Ích Tắc mang theo cả gia quyến và tuỳ tùng
đông đúc, xe pháo ngựa nghẽo kềnh càng, tại sao lại dễ dàng “đào tẩu” sang bên
kia biên giới một cách ngoạn mục đến thế? Trong khi, trước đó, ở trong nước
cũng đã có một số vương hầu đã đầu hàng quân Nguyên. Chương Hiến Hầu Trần Kiện
(con Trần Quốc Khang) trấn giữ thành Nghệ An, do không có ai ứng cứu, nên cũng
buộc phải đầu hàng trước sức tấn công dữ dội từ bốn phía của Mông Nguyên. Trần
Kiện mang theo cả gia quyến và tuỳ tùng chạy đến biên giới thì bị tướng Nguyễn
Địa Lô phục binh dùng tên độc bắn chết. Lê Tắc (gia thần của Trần Kiện) đã phải vác xác Trần Kiện chạy sang bên kia
biên giới để chôn.
Đoàn người cùng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc
chạy sang “hàng” Mông Nguyên có thể cả trăm, vài trăm người, lại rất quan trọng,
lại rất “nghiêm trọng” hơn Trần Kiện rất nhiều, sao không bị phục binh quân Trần
chặn đánh ở biên giới? Tôi vẫn tin rằng, trong đoàn người do Trần Ích Tắc dẫn đầu
chạy sang “hàng” Mông Nguyên, có cả những người Việt rất giỏi nữa, Họ sẽ trở
thành những trợ lý đắc lực cho Chiêu Quốc Vương đấy! Người đời sau chẳng lẽ lại
không nghĩ đến cái điều “hết sức vô lý”, mà lại rất hợp lý này hay sao? Đó có
phải là sự “ngẫu nhiên” hay không?
Chúng
tôi xin nhắc lại rằng, chuyện Trần Ích Tắc “bỏ trốn”, đã nằm trong kịch bản rất
chu đáo của lãnh đạo triều Trần. Rất dễ hiểu! Thế mà mấy trăm năm nay, không có
mấy ai hiểu ư? Xin thưa rằng, thực ra, cũng đã có một số người hiểu, nhưng họ
chưa đủ cơ sở để viết thành một nghiên cứu đàng hoàng, khoa học mà thôi!
Cách
nay khoảng 4 năm, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha có bài viết về nhân vật lịch
sử Trần Hữu Lượng, thể hiện sự tiếc nuối, rằng Đại Việt đã bỏ lỡ mất cơ hội làm
chủ Trung Nguyên (Trung Quốc), sau thất bại của Trần Hữu Lượng, con trai Trần
Ích Tắc. Theo nhà báo, nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Khoa, Tổng biên tập tạp chí
VĂN HIẾN VIỆT NAM, ông Nguyễn Thụy Kha đã gửi bản thảo đến tạp chí, nhưng ông
Nguyễn Thế Khoa bấy giờ thấy bài báo của nhà thơ kiêm nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha
là vấn đề nhạy cảm, chưa tiện công bố, nên bản thảo bài viết vẫn còn để đó.
Một
số sách thuộc loại nguỵ thư, do người Tàu “sáng tạo” hết sức tinh vi, nhằm đánh
lừa dư luận, lừa bịp những người Việt đời sau, khiến họ ngáo ngơ, ngơ ngác. Một
số không ít người cứ khăng khăng tin vào những thứ sách vở hết sức vớ vẩn ấy,
mà quên mất tổ tiên mình thông minh, anh dũng, vĩ đại như thế nào. Người Tàu ca
ngợi Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) của họ, cố tình hạ thấp, cố ý làm lu mờ,
hoặc xóa bỏ chiến công vĩ đại của cha con Trần Ích Tắc-Trần Hữu Lượng, thì có
gì mà lạ đâu?
B
1.
Như
chúng tôi đã nói ở mấy bài khác, rằng chúng ta có thể hình dung ra nhiệm vụ
tình báo chiến lược của Trần Ích Tắc, gồm hai mũi tiến công: Chính trị và Quân
sự. Về chính trị, Trần Ích Tắc hoạt động đơn tuyến, tác động tâm lý vào các đối
tượng quan chức triều đình Mông Nguyên. Đội ngũ đại quan triều đình Hốt Tất Liệt,
đều là tinh hoa của các nước chư hầu, rất
ô hợp. Không thể hình dung cụ thể Trần Ích Tắc đã khôn khéo ngoại giao thế nào
đó, khiến quan chức các nước chư hầu thấy rõ thân phận nô lệ của họ, chán ghét
chế độ thống trị độc tài của Hốt Tất Liệt. Cũng không thể biết rằng Trần Ích Tắc
đã tác động đến tâm lý Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông) như thế nào, ngay từ
khi ông này còn ở ngôi Đông cung Thái tử. Chỉ biết rằng, đến khi đăng quang
ngôi Hoàng Đế triều Mông Nguyên, Thiết Mộc Nhi đã ngay lập tức ban chiếu bãi
binh, chấm dứt cuộc xâm lăng của Mông Cổ xuống Đại Việt lần thứ 4. Đến như ở ngự
tiền, triều đình Mông Nguyên, “các vị chư lão cũng cho lời ngọc châu”, tức những
lời vàng ngọc chân thành chúc mừng nước Đại Việt, chúc mừng ngài “sứ thần” Trần
Ích Tắc. Chẳng phải là rõ ràng lắm rồi ư?
Không
có thơ của “tên phản quốc” Trần Ích Tắc, làm sao có thể hình dung ra việc “quan
vận” hết sức tinh tế của ông? Chiến công thầm lặng vĩ đại của Trần Ích Tắc,
đương thời ai biết? Ai ghi chép được?
Nhưng thơ của Trần Ích Tắc để lại cho đời, đã cho chúng ta thấy rõ điều
đó.
Về quân sự, Trần Ích Tắc đã chỉ đạo cho người
con trai của ông là Trần Hữu Lượng âm thầm xây dựng lực lượng vũ trang, chủ yếu
là con em người Bách Việt ta, lên tới hơn 65 vạn quân tinh nhuệ. Hạm đội lớn gồm
cả ngàn chiến thuyền lớn nhỏ.
Sách
ĐVSKTT chép việc Trần Hữu Lượng đã ba lần sai sứ về Đại Việt, yêu cầu Trần Dụ
Tông giúp sức đánh Mông Nguyên, nhưng Dụ Tông từ chối. Chỉ đến lần thứ 3, Dụ
Tông mới sai KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG Nguyễn Trung Ngạn đem theo một đội quân nhỏ,
sang bên kia biên giới để nghe ngóng tình hình chiến sự thế nào. Sử ta chỉ chép
việc, chứ không thấy chép tên viên quan cụ thể nào, nhưng qua thơ của Nguyễn
Trung Ngạn, cho ta biết rõ ông chính là người được vua Trần Dụ Tông cử đem theo
một đội quân nhỏ, sang bên kia biên giới nghe ngóng tình hình chiến sự thế nào.
Bài
thơ VĨNH BÌNH TRẠI SƠ PHÁT (Mới ra khỏi trại Vĩnh Bình), thơ Nguyễn Trung Ngạn
có câu:
Gió
ù ù thổi, ngọn cờ nhà Hán phấp phới lướt dạt ngọn cỏ,
Nghe
tiếng ngựa rợ Hồ kêu, khiến lòng rùng rợn, mà cung đao đeo bên mình (họ) dường
như phát tiếng kêu.
Thơ
đã thể hiện một cách chân thực nhất hình ảnh cuộc chiến đấu của Trần Hữu Lượng,
xưng Hán Đế, lấy quốc hiệu Đại Hán, giương cờ Hán đánh nhau với Mông Nguyên…
Có
người bảo rằng ở thời Trần Dụ Tông, Đại Việt còn đang mạnh. Mạnh như thế nào nhỉ?
Nhà nước kiệt quệ, đến mức Trần Dụ Tông phải bán tước cho nhà giàu, lấy lương
thực, tiền bạc cung ứng cho triều đình. Nông dân nổi lên khởi nghĩa khắp nơi,
tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Ngô Bệ ở Yên Phụ. Tham quan tha hồ vơ vét của dân.
Đến nỗi, Thầy Chu Văn An khuyên Dụ Tông không nghe, ông bèn treo mũ từ quan.
Vua Dụ Tông ăn chơi sa đoạ, chỉ thích chơi chim, chơi cây cảnh, gái gú lu bù. Đất
nước như vậy, triều đình như vậy, vua như vậy, lại là “đang mạnh” hay sao?
Trong
khi đó, ở phương Nam, Chiêm Thành đang trỗi dậy. Họ đã ba lần đem quấn tấn công
Đại Việt. Nếu không là suy yếu, thì Chiêm Thành dám tấn công Đại Việt được sao?
Thêm nữa, nên biết rằng, Trần Hữu Lượng chiến đấu với quân Mông Nguyên ở phía Bắc,
chẳng phải là đã che chắn cho Đại Việt được yên ổn đó sao? Chiến lược đánh giặc
ngay trên đất giặc, ngay trong lòng địch, để bảo vệ Đại Việt ở phía sau, như
lãnh đạo nhà Trần đã giao cho Trần Ích Tắc. Chẳng phải là ở bài thơ XUẤT QUỐC,
chính Trần Ích Tắc đã nói rằng, việc ông phải bỏ nước ra đi, là để làm cái việc
như ngài Cơ Tử (Vi Tử), làm cho nhà Ân còn mãi đó sao? Chẳng phải là để cho Đại
Việt còn mãi đó sao? Đâu phải như Tấn Văn Công (tức công tử Trùng Nhĩ), bỏ nước
ra đi để nhờ thế lực ngoại bang, lại trở về làm vua nước Tấn?
Ở
bài thơ XUẤT QUỐC, Trần Ích Tắc viết khi ông bắt đầu rời nước ra đi:
Năm
đó, vì trọng nghĩa mà rời khỏi nước Nam,
Tấc
lòng son canh cánh (của ta), chỉ trời xanh mới biết.
(Ta)
chẳng phải Văn Công, bỏ nhà Tấn lúc nguy nan,
(Mà)
ngõ hầu như Vi Tử nối dõi nhà Ân đã mất.
Chí
nối nghiệp cũ của cha ông vẫn không hề tiêu tan,
Nên
để sử sách lưu lại tiếng thơm ngàn đời!
Đến
ngày bờ cõi thống nhất (chúng ta) cùng gặp gỡ,
Thì
dòng dõi cha ông nối tiếp, lâu bền như núi non nước Việt!
Dịch
thơ:
Trọng
nghĩa, nên ta rời Đại Việt,
Trời
xanh mới biết tấm lòng son.
Chẳng
phải Văn Công rời Tấn quốc,
Mà
như Vi Tử muốn Ân còn.
Chí
nối nghiệp xưa luôn tạc dạ,
Tiếng
thơm còn mãi sử không mòn!
Một
mai thống nhất giang sơn ấy,
Dòng
dõi cha ông vững Việt non!
(VŨ
BÌNH LỤC dịch)
Chỉ
cần hiểu rõ nội dung bài thơ XUẤT QUỐC, chúng ta cũng đủ cơ sở quan trọng nhất,
tổng quan nhất để nhận thức được tấm lòng, ý chí, nguyên nhân Chiêu Quốc Vương
phải rời đất nước ra đi, quyết nối nghiệp cha ông anh dũng quật cường. Ông
không phải như Tấn Văn Công thời Chiến Quốc bên Tàu, rời nước ra đi để rồi mượn
thế lực nước Tần, quay về chiếm lấy ngôi vua nước Tấn. Ông như ngài Cơ Tử (Vi Tử)
nước Ân (Thương) chấp nhận làm quan cho nhà Chu, để được Chu Vũ Vương tin tưởng
phong cho ông chức Tề Vương, quản lý cả vùng đất Sơn Đông, rồi làm vua nước Tiều
Tiên. Nghĩa là Chiêu Quốc Vương muốn nhà Trần, muốn Đại Việt ta còn mãi. Ông khẳng
định việc ra đi của ông là vì trọng nghĩa với trriều Trần, với non sông Đại Việt.
Việc làm của ông, chỉ có trời xanh mới biết mà
thôi! Ông hy vọng ngày Đại Việt ta, tức Nam Việt ta, tức Lĩnh Nam ta, sẽ
thống nhất. Sử xanh sẽ ghi mãi công lao của ông. Chí nối nghiệp cha ông sẽ bền
vững như núi non Bách Việt vậy! Chứ đâu phải là ông tham công danh, “vì cái lợi
nhỏ mà cam tâm bán nước”, như lời cáo buộc hết sức vớ vẩn của ngài Giáo sư Mai
Quốc Liên?
Giá như may mắn, Trần Hữu Lượng con trai ông
chiến thắng Chu Nguyên Chương ở trận đại thuỷ chiến trên hồ Bành Lãi (Bà
Dương), thì cái việc tiến lên thu phục Trung Nguyên đã thành công, đã thành hiện
thực. Người đời sau, mấy ai biết được ý chí lớn lao của lãnh đạo triều Trần và
của Chiêu Quốc Vương thiên tài, vĩ đại? Mông Cổ là một đế quốc khá rộng lớn,
nhưng dân số không nhiều, mà họ cũng đánh bại nhiều nước ở châu Âu, châu Á. Chẳng
phải là họ đã nuốt chửng con voi khổng lồ Trung Quốc đó sao? Đại Việt ta rất
hùng mạnh, kiên cường, “thông minh vốn sẵn tính trời”, sao không thể làm được
như Mông Cổ? Không có gì là không thể!
Vua
Dụ Tông (Trần Hạo) nhờ có Trần Hữu Lượng đánh giặc ở bên kia biên giới, mà ông
ta được thảnh thơi ăn chơi, hưởng lạc. Ông ta cũng không thể biết rằng tại sao
Đại Việt lại được yên ổn như thế, huống chi là kẻ đọc sách đời sau, chỉ biết đọc
mà không biết suy xét thực tế như thế nào? “Đọc sách, phải thông đòi nghĩa
sách” (Nguyễn Trãi).
Lịch
sử đã diễn ra như vậy. Thơ Trần Ích Tắc đã thể hiện chân thực nhất tâm trạng của
ông, tấm lòng son sắt của ông với non sông đất nước Đại Việt.
Lại
có người cho rằng, nhân vật Trần Hữu Lượng còn có một số văn bản khác nói rằng
ông ấy là người Hán, tức không phải con trai Trần Ích Tắc. Xin thưa với các bạn
rằng, những sách gọi là ngụy thư (sách dối trá) do người Tàu tung ra rất nhiều,
cốt làm rối loạn dư luận. Họ thực hiện cuộc chiến tranh tâm lý, chiến tranh văn
hoá vô cùng tinh vi và ác độc. Những thứ sách dối trá đó (nguỵ thư) được viết rất
khéo, như thật, khiến người Việt đọc nhiều mà không hề biết rằng mình đã ăn phải
cái bả lừa dối của họ. Chiêu này thì họ đã làm từ xửa xưa rồi. Nó đánh vào niềm
tin của dân ta, đến mức người Việt hoang mang, chẳng còn biết thực hư thế nào,
chẳng còn biết cha ông mình là ai! Và họ cũng đã thành công, rất thành công. Đến
mức ngày nay, một số trí thức người Việt lại là những người tiên phong, tiếp
tay tuyên truyền cho chiến lược chiến tranh tâm lý, chiến tranh văn hoá vô cùng
tinh vi, ác độc của người Tàu. Chẳng phải là đáng buồn, đáng trách lắm hay sao?
Thử
hỏi, chúng ta tin vào những thông tin giả dối, hay tin vào chính sử nước ta, tức
sách ĐVSKTT? Ấy là chỉ nói chi tiết sách ĐVSKTT chép rằng Trần Hữu Lượng chính
là con trai của Trần Ích Tắc? Thử nghĩ mà xem, nếu Trần Hữu Lượng là người Hán,
thì với binh lực hơn 65 vạn quân tinh nhuệ, ông ta chỉ cần bước qua biên giới Đại
Việt ở thời Trần Dụ Tông, cũng lấy được Đại Việt như trở bàn tay! Tại sao Trần
Hữu Lượng lại 3 lần sai sứ giả về Đại Việt yêu cầu Dụ Tông giúp sức đánh Nguyên
Mông?
Chúng
ta không thể biết Trần Ích Tắc đã hành động cụ thể như thế nào, khôn khéo trong
ngoại giao với đối thủ như thế nào, nhưng từ thơ ông, từ thực tế lịch sử đã diễn
ra, kết nối với thơ ca đương thời, như thơ Nguyễn Trung Ngạn và một số tác giả
đời sau khi đi sứ sang Tàu, đã giúp chúng ta dựng lên chân dung đích thực của
Trần Ích Tắc, với tư cách là một nhà tình báo chiến lược thiên tài, đơn tuyến.
Hơn thế, ông là người anh hùng dân tộc vĩ đại của Đại Việt ta, mà các loại nguỵ
thư bên Tàu thường xuyên tạc, cố tình cố ý xuyên tạc, nhằm đánh tráo sự thật,
làm lu mờ vai trò của cha con Trần Ích Tắc-Trần Hữu Lượng, trong sự nghiệp làm
tan rã giặc Mông Nguyên, ngay trên đất của chúng ta thời Triệu Vũ Đế và Hai Bà
Trưng từng làm chủ. Họ dã tâm cướp lấy công lao làm tan rã Mông Nguyên của cha
con Trần Ích Tắc đấy!
Nhà
thơ Mỹ gốc Nga, giải Nobel văn chương năm 1987 đã nói: “Để hiểu biết về một con
người, một dân tộc từ ngàn năm trước, thì chỉ có thi ca mới làm được điều đó mà
thôi”!
2.
Có
bạn còn thắc mắc, rằng tại sao vua Trần phải hỏi Hưng Đạo Đại Vương năm nay
đánh giặc thế nào? Chả là, sử ta (ĐVSKTT) chép, vua Trần hỏi rằng năm nay thế
giặc thế nào? Hưng Đạo Đại Vương trả lời: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Có bản dịch:
“Năm nay thế giặc dễ phá”!
Thưa
rằng, sở dĩ như vậy, là bởi vì Hưng Đạo Đại Vương được triều đình tin tưởng tài
năng xuất chúng của ông, trao cho ông chức “Quốc Công Tiết Chế”, tức Tổng Tư lệnh
các lực lượng kháng chiến toàn quốc.
Xin
nhớ cho rằng, ở đời nhà Trần có cả một HỘI ĐỒNG QUÝ TỘC luôn họp bàn những quyết
sách lớn của đất nước, chứ không như ở các triều đại quân chủ chuyên chế, vua
quyết định tất cả. Nhà vua chuyên chế, đôi khi nghe lời sàm tấu của bọn khuyển
nhung, nên đã phán quyết sai, dẫn đến hậu họa khôn lường. Ví như Lê Lợi nghe lời
sàm tấu của bọn chó lợn, cho nên ông đã xuống tay giết oan những vị công thần
khai quốc khả kính, như Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn ở đời Hậu lê.
Ở
đời Trần, tin tức tình báo do Trần Ích Tắc sai giao liên đặc biệt chuyển ngay
cho Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Từ kế hoạch tấn công của Hốt Tất
Liệt đã có trong tay, Quốc Công Tiết Chế phải lập tức cùng bộ tham mưu của ông
lên kế hoạch tác chiến, chủ động đối phó với 50 vạn quân Mông Nguyên rất hùng mạnh.
Sau đó, tất nhiên, theo lễ, Hưng Đạo Đại Vương phải về Thăng Long trình bày kế
hoạch tác chiến với hai vua (Nhị thánh). Việc vua Trần phải hỏi Hưng Đạo Đại
Vương “Thế giặc năm nay thế nào”, là vì lẽ ấy!
Thêm nữa, phủ đệ của Hưng Đạo Đại Vương đóng ở
An Bang, do đó việc đưa tin cho Hưng Đạo Đại Vương gần hơn, thuận tiện hơn, chứ
còn sao nữa?
3.
Trần
Ích Tắc là tên cha mẹ ông đặt cho, với nghĩa “Ích Tắc” là người sẽ đem lại lợi
ích cho xã tắc. Chính vua cha Trần Thái Tông và mẹ ông là bà Vũ Phi (Vũ Thị Vượng)
đặt tên cho Ích Tắc, với kỳ vọng rất lớn về đứa con thông minh tuyệt vời, sau
này sẽ giúp ích rất nhiều cho đất nước (xã tắc). Ông đã sống, đã chiến đấu ngay
trong lòng địch, như một người anh hùng thầm lặng, mà chiến công vĩ đại. Quả là
không hổ thẹn với kỳ vọng của cha mẹ ông, của đất nước Đại Việt!
Thời trẻ, Trần Ích Tắc đã có phủ đệ riêng của
mình. Ông đã mở trường tư thục bên cạnh Quốc Tử Giám. Ông dạy dỗ học trò nghèo
miễn phí, bao cấp từ đầu chí cuối. Học trò ông đều đỗ đạt cao. Một số người là
những trọng thần trụ cột của của triều đình, những thi sĩ lớn, những nhà văn
hoá lớn, như các ông Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn,
danh sĩ lỗi lạc Trương Hán Siêu, Bùi Phóng v.v…Sử sách nước ta đều chép về việc
này. Và chính ông GS Mai Quốc Liên cũng đã viết về việc này.
Chiêu Quốc Vương là một nhà văn hoá nổi bật nhất
của đất nước (theo lời ca ngợi của GS Mai Quốc Liên). Ông cũng là một nhà giáo
đầu tiên mở cơ chế mới cho giáo dục. Ngày nay cơ chế mở trường tư thục trong
giáo dục chính là sự tiếp nối tư tưởng đổi mới và sự nghiệp giáo dục của Chiêu
Quốc Vương Trần Ích Tắc đấy! Có thể nói không ngoa rằng, Trần Ích Tắc là một
nhà giáo vĩ đại.
Nếu bảo Trần Ích Tắc là kẻ bán nước cầu vinh,
vì lợi ích nhỏ mà quên Tổ quốc, như lời phán quyết của GS Mai Quốc Liên, thì tại
sao các học trò của ông vẫn ngang nhiên, vẫn đàng hoàng ngồi trên ghế những bậc
đại thần trụ cột của triều đình? Chẳng phải là vô lý lắm hay sao? Thầy phản quốc,
tại sao trò vẫn không bị trừng trị theo thầy? Luật pháp thời xưa, trò là sản phẩm
giáo dục của thầy. Nếu thầy bị kết tội “tru di cửu tộc”, thì học trò là một
trong chín họ phải bị “tru di”…
Thầy
Nguyễn Trãi ở thời Lê Sơ, bị bọn gian thần kết tội “tru di tam tộc”, tức phải
giết cả ba họ. Học trò Nguyễn Trãi làm quan trong triều rất nhiều. Thơ Nguyễn
Trãi cả Hán và Nôm, đều có nói đến việc Nguyễn Trãi khuyên học trò ông phải biết
thương yêu nhau thế nào, phải liêm chính như thế nào. Ấy vậy mà, khi Nguyễn
Trãi bị khép tội “tru di”, học trò thầy Ức Trai biến đi đâu mất tiêu cả. Không
có ai dám để lại một bài thơ nào viết về thầy Nguyễn Trãi cả? Tại sao?
4.
Tại
sao vua Trần Thánh Tông không xoá danh tính họ Trần của Trần Ích Tắc? Tất
nhiên, không thể xóa bỏ danh tính họ Trần của Chiêu Quốc Vương được! Chỉ tạm gọi
là “Ả Trần”, tức người họ Trần, nhưng hèn nhát yếu đuối như đàn bà. Chẳng phải
đó là tín hiệu rất quan trọng để đời sau có trách nhiệm làm rõ hành trạng của
Chiêu Quốc Vương hay sao? Ông vẫn có danh tính họ Trần. Chẳng phải thơ ông vẫn
được Lê Quý Đôn tuyển đưa vào bộ sách TOÀN VIỆT THI LỤC, tức bộ sách tuyển thơ
lớn nhất của người Việt đó sao? Ai dám bảo ông vì lợi lộc riêng mà phản quốc?
5.
Khi
Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan làm tổng Tư lệnh, đem 50 vạn quân thuỷ bộ tấn công
Đại Việt lần thứ 3 (1287-1288), Trần Ích Tắc được Thoát Hoan đưa về nước, làm
AN NAM QUỐC VƯƠNG. Ở bài thơ HỒI QUỐC (Về nước), Trần Ích Tắc chỉ nói rằng ông
“theo chân ngựa chiến trở về thăm lại quê hương”, chứ đâu phải là ông muốn về Đại
Việt, làm AN NAM QUỐC VƯƠNG?
Triều
đình nhà Trần rời bỏ Thăng Long theo chiến thuật “vườn không nhà trống”, hay
còn gọi là kế “thanh dã”. Trần Ích Tắc ung dung theo chân ngựa chiến về thăm lại
quê hương, là bởi ông đã hoàn toàn tin tưởng chắc chắn rằng Hưng Đạo Đại Vương
đã có kế sách đối phó, sẵn sàng phòng ngự, đón đợi và tiến công đánh thằng giặc
Mông nguyên.
Ở
bài thơ HỒI QUỐC, Trần Ích Tắc đã viết:
Mấy
năm xa nước, (thế sự) mờ mịt như mây trên trời, cá dưới đất,
Thân
gửi ngựa trạm tạm ghé thăm nhà.
(Chỉ
thấy) lớp lớp lâu đài (ở Thăng Long) trơ bóng nắng,
Những
thiếu nữ yêu kiều quý phái (năm xưa) đều ở mỗi phương trời cách biệt,
Lòng
thành (của ta) muốn trở về biển Đông, giống như chim hạc muốn trở về đất Liêu,
Đâu
dám mong thành con rắn Trịnh để vào thành Nam Môn.
Nhân
vật (ở Thăng Long) quạnh hiu, (cho nên) chẳng biết chốn nào mà hỏi,
Gió
sông thổi mãi hoa lệ chi.
Dịch
thơ:
Mấy
năm xa nước mịt mờ,
Gửi
thân ngựa trạm, tạm nhờ thăm quê.
Lâu
đài che bóng nắng huê,
Yêu
kiều thiếu nữ dạt về nơi đâu?
Lòng
chim hạc muốn quay đầu,
Nam
Môn tắn Trịnh dám đâu tranh giành?
Hỏi
ai giữa chốn vắng tanh,
Gió
sông vi vút lay cành lệ chi….
(VŨ BÌNH LỤC dịch)
Người
đọc thơ, nếu không biết rõ nội dung các điển cố, điển tích được tác giả đưa vào
thơ, tất sẽ không hiểu được giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.
Ở đây, Trần Ích Tắc mượn điển tích con rắn Trịnh vào thành Nam Môn, là cốt để
nói rằng, ông không phải là kẻ về đây, về thành Thăng Long mà tranh giành cái
chức làm vua nước An Nam với những người anh em của mình đâu. Nhiệm vụ của ông
khác nhiều, còn lớn hơn nhiều nữa kia!
Không
hiểu được ý tưởng chủ đạo của bài thơ, mà cứ khăng khăng, cứ khư khư ôm lấy cái mặc cảm xấu, thì thật là tệ hại vô cùng.
Ông GS Mai Quốc Liên đã mắc phải cái lỗi không hiểu thơ Trần Ích Tắc, mà cứ bô
bô lớn tiếng kết tội Trần Ích Tắc, mà đã vô tình dẫn dắt dư luận đến sai lầm tệ
hại như thế đấy!
Quân
Trần không bố trí chặn đánh đội quân do Thoát Hoan dẫn đầu, có Trần Ích Tắc đi
theo. Thực sự là có quấy nhiễu một tý cho nó có vẻ chống trả “yếu ớt” thế thôi.
Chiến thuật ấy, nếu nhìn tinh, thì sẽ thấy quân Đại Việt đã hoàn toàn có chủ định.
Hưng Đạo Đại Vương chỉ sai viên tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc chặn đánh quyết
liệt đội quân do hai tên hàng tướng người Việt là Lê Tắc và Lê An chỉ huy. Đánh
quyết liệt, nhưng vẫn để ngỏ hướng Bắc. Thế là sao? Là để bảo toàn cho tính mạng
cha con Trần Ích Tắc, được an toàn trở về phủ Tư Minh bên kia biên giới đúng
vào ngày Nguyên Đán, năm 1288. Đó là sự “ngẫu nhiên” như ý kiến của ông bạn
tôi, PGS-TS Vũ Nho hay sao? Chính Lê Tắc đã ghi lại chi tiết rất thực tế này.
Ông ta viết: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết. Ngày chạy mấy trăm dặm,
từ nửa đêm đến tảng sáng thì đến châu Tư Minh, vọng bái cửa khuyết, mừng Tết
năm Mậu Tý”…
Kẻ
đọc sách, “phải thông đòi nghĩa sách” (Nguyễn Trãi). Nếu không như vậy, thì dẫu
có đọc cả muôn vạn quyển, cũng chẳng có ý nghĩa gì!
Thực ra, kế hoạch tấn công ba mũi của Hốt Tất
Liệt, đã được Trần Ích Tắc thâu tóm, chuyển gấp về cho Hưng Đạo Đại Vương từ rất
sớm. Nhờ đó, Quốc Công Tiết Chế đã lập tức xây dựng phương án tác chiến, chống
lại 50 vạn quân Nguyên rất hùng mạnh. Việc Hưng Ninh Vương Trần Tung trá hàng,
xâm nhập vào doanh trại của chủ tướng thoát Hoan, rồi ngay đêm đó, ông đem quân
tinh nhuệ biệt kích vào doanh trại Thoát Hoan, khiến hắn bất ngờ, hoảng hốt.
Quân Mông Nguyên thua chạy tan tác về bên kia biên giới. Còn đạo quân thuỷ, do
Ô Mã Nhi chỉ huy, thì tháo chạy theo sông Bạch Đằng, bị quân Trần đón đợi ở đó,
chặn đánh quyết liệt ở cửa Bạch Đằng, tiêu diệt hoàn toàn. Nếu không có tin
tình báo của Trần Ích Tắc chuyển về từ trước đó, làm sao quân dân nhà Trần lại
đánh thắng giặc Mông Nguyên một cách thành công dễ dàng như vậy?
Ngày nay, ở Uông Bí, Đông Triều, ở sông Bạch Đằng
vẫn còn dấu tích những bãi cọc gỗ được chôn xuống lòng sông. Còn đó những con
sông, những vị trí quân dân Đại Việt chặt gỗ thả bè xuôi theo dòng sông trôi về
vị trí tập kết. Việc chặt gỗ đóng cọc sao nói có thể dễ dàng? Hưng Đạo Đại
Vương phải sai quân dân vùng Quảng Ninh bí mật thi hành việc đốn cây, vận chuyển
gỗ, từ rất sớm. Rồi thao tác đóng cọc gỗ như thế nào? Tất cả các những công việc
chuẩn bị cho cuộc quyết chiến chiến lược diễn ra như một chiến tích kỳ diệu,
như một kỳ tích thật kinh hoàng, ngoài sức tưởng tượng của người đời sau đấy!
Nó không phải chỉ diễn ra trong vài ba tháng, mà có thể cả nửa năm trời, thậm
chí cả năm trời chuẩn bị kỹ lưỡng, bí mật tuyệt đối, mới có được sự thành công
ngoài mong đợi.
Do vậy, nếu không có được thông tin tình báo
do Trần Ích Tắc chuyển về từ trước đó, thì sao có được sự chuẩn bị chu đáo đến
thế? Thì sao Hưng Đạo Đại Vương lại tự tin nói với vua rằng, “Năm nay đánh giặc
nhàn”? Chả lẽ đó lại là sự “ngẫu nhiên” hay sao?
Kẻ làm tướng, theo binh pháp tối thiểu là “Biết
địch biết ta, trăm trận trăm thắng”!
Nếu
không biết Hốt Tất Liệt chuẩn bị kế hoạch tấn công Đại Việt như thế nào, sao
Hưng Đạo Đại Vương lại có thể tự tin chiến thắng đến vậy”?
Trước đó nữa, nếu không biết rõ sự thật mạnh yếu
của quân Mông Cổ như thế nào, thì tại sao Thống soái Trần Thủ Độ lại có thể bình
tĩnh nói với vua trẻ Trần Cảnh rằng: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng
lo”! Chả lẽ, Thống soái Trần Thủ Độ khi nói với vua cháu Trần Cảnh như thế, là
ông ấy nói bừa hay sao? Trước sự tồn vong của cả một dân tộc, trước đối thủ có
sức mạnh khủng khiếp như thế, mà Thống soái nói chơi hay sao? Không biết địch
biết ta, tự tin chiến thắng trước quân Mông Cổ vó ngựa của chúng từng dẫm nát cả
Á, Âu, làm sao Thái sư Trần Thủ Độ lại có thể tự tin nắm chắc phần thắng được?
PHẢI TRẢ LẠI CÔNG BẰNG CHO
CHIÊU QUỐC VƯƠNG TRẦN ÍCH TẮC
Chúng
tôi đã dùng phương pháp luận nghiên cứu liên ngành, liên văn bản, từ thơ ca của
Trần Ích Tắc để lại, đối chiếu với sự thật lịch sử đã diễn ra, để hướng tới một
cái nhìn mới, toàn cảnh, hoàn toàn có cơ sở khoa học. Gạt bỏ những sách vở thuộc
loại nguỵ thư của đối phương và những cáo buộc, những “phán quyết” vô tâm, vô
lý của người Việt ta qua nhiều đời, thẳng thắn vén lên bức màn huyền bí của lịch
sử, để chứng minh rằng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc chính là một nhà tình báo
chiến lược thiên tài.
Con người thật, con người “có ích cho xã tắc”
như tên ông, vì sự tồn vong của nhà Trần và đất nước mà phải tạm thời hy sinh
danh dự cá nhân. Ông đã phải tự biến mình thành một con người khác, con người
thứ hai, thật sự là vô cùng thương cảm. Bài thơ QUÂN TRUNG ĐIỆU VONG (Viếng người
chết trong quân), chính là ông tự viếng mình.
Ông
cho rằng cái danh dự Chiêu Quốc Vương của ông từ lúc XUẤT QUỐC, phải bỏ nước ra
đi, xem như đã chết từ nay, từ lúc ấy rồi. Con kỳ nhông đã tự đổi màu biến sắc,
nhưng rốt cuộc, nó vẫn là con kỳ nhông thông minh, tài hoa và bản lĩnh. Tuy
nhiên, ông đã khẳng định rằng ông sẽ là ngôi sao Bắc Đẩu soi sáng cả bầu trời
phương Bắc. Thơ Trần Ích Tắc đã nói rõ ý đó!
Vậy
mà ngày nay có kẻ tự cho mình hàm vị cao, vu cáo ông là giả dối. Thật không thể
hiểu nổi!
Trần Ích Tắc chỉ tự xem mình là một vị sứ thần
của Đại Việt ở triều đình Mông Nguyên. Là sứ thần Đại Việt đã mấy lần đánh bại
Mông Nguyên, chứ đâu phải là kẻ đầu hàng?
Ông
viết:
Sứ
giả được ban rượu Hoàng Phong cưỡi con kỳ lân đến,
Phóng
như bay đạp lên gió cao, rũ tung bụi đường.
Rượu
tiên chưng cất thành mưa móc trên trời,
Rượu
ngự phân ban để tế thần trước mùa xuân.
Ơn
vua thấm khắp nước Nam như sóng cả,
Chúa
xuân chuyển khí xuân làm cỏ cây tươi tốt.
Bái
lạy xong, thong thả hát bài “Ký túy”,
Ngửa
mặt trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào.
(TẠ ƠN ĐƯỢC BAN RƯỢU Ở THANH CUNG)
Đây
là bài thơ Trần Ích Tắc thể hiện rất rõ niềm vui vô tận của ông, khi được Đông
cung Thái tử Thiết Mộc Nhi mới lên ngôi, ban rượu quý ở Thanh Cung.
Rõ ràng, Chiêu Quốc Vương chỉ tự coi mình là SỨ
THẦN của nước Đại Việt ở đây, ở ngay cái cung điện của vua Nguyên. Kỳ lân là biểu
tượng của điềm lành. Thực ra, ông cưỡi ngựa, chứ kỳ lân đâu mà cưỡi? Điềm lành ấy,
chính là điềm lành đem đến cho dân nước Nam ta. Cuộc chiến tranh lần thứ 4 của
Mông Nguyên đã chấm dứt rồi. Còn gì may mắn, còn gì “lành” hơn thế nữa?
Vậy nên mới có cái ý “Ơn vua (Nguyên Thánh
Tông) thấm khắp nước Nam như sóng cả”, rồi thì “Chúa xuân chuyển khí xuân làm cỏ
cây tươi tốt”. Chúa xuân ở đây, chính là biểu tượng của vua Nguyên Thiết Mộc
Nhi. Ông ấy đã mang điềm lành đến cho dân nước Nam ta, đem đến sự xanh tươi cho
mùa xuân đất trời tươi tốt. Thế nên Chiêu Quốc Vương mới vui mừng rạng rỡ “ngửa
mặt trông xa về nơi cung cấm, niềm vui dâng trào”!
Cung
cấm mà Trần Ích Tắc “ngửa mặt trông xa” ở đây, chính là nơi cung cấm của nhà Trần
ở Thăng Long. Ông thầm nhắn nhủ cho những người anh em của ông ở quê nhà cái
tin vui bất tận, cho nên niềm vui của ông, của con dân nước Nam ta mới “dâng
trào như sóng” vậy!
Ông
vui mừng như chưa bao giờ được vui đến thế, khi được dự yến vua ban, được nghe
chiếu bãi binh của Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông). Người không hiểu thơ ông
thì cho rằng đó là những “hành vi nịnh hót của kẻ đầu hàng bán nước”. Không hiểu
được thơ ông, nên không biết, mà cứ liều lĩnh phán bừa, phán quyết sai. Đó
chính là cái lỗi của sự không hiểu, hiểu sai tình ý vô cùng sâu kín, vô cùng
tinh tế của thơ Chiêu Quốc Vương. Chỉ tiếc rằng, một số vị có hàm, có vị cao,
do không có chuyên môn phù hợp, kiến văn hạn hẹp quá, cho nên cũng mắc phải cái
tật nói leo, nói bừa. Vậy đấy!
Không
hiểu thơ của Trần Ích Tắc, sao biết được điều này? Ông muốn làm con chim én bay
nhanh về báo tin vui cho những người anh em ở quê nhà cái tin Đại Việt đã thoát
khỏi cuộc xâm lăng lần thứ 4 của quân Nguyên, mà Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị sẵn kế
hoạch rất chu đáo, từ năm 1293. Ông ta sẽ dốc cả binh lực chín châu xuống làm cỏ
Đại Việt. Thật may là ông ta chết mấy tháng sau (1294).
Chiêu Quốc Vương hoạt động cụ thể ra sao, khôn
khéo đến mức nào, ai biết? Nhưng thơ của Trần Ích Tắc đã cho chúng ta thông tin
ấy đấy! Thơ ông là di ngôn cực kỳ quan trọng, để đời sau phải chịu khó tìm hiểu,
mới mong có sự hiểu biết sự thật về cuộc đời ông.
Chiêu
Quốc Vương chỉ biết một mình tâm sự với chính mình. Khi vui, lúc buồn. Ông vô
cùng cô đơn giữa triều đình Mông Nguyên rất đông người “tứ chiếng”. Ông tự chúc
thọ mình khi ông được hưởng thọ sáu mươi tuổi. Một cơn say đến mức tuyệt hảo của
nghệ thuật thơ ca. Không thể nói khác đi được rằng, Trần Ích Tắc là một trong
những nhà thơ lớn nhất, tài hoa nhất ở đời Trần, và cả ngàn năm thơ ca nước Đại
Việt!
Hãy
đọc thơ ông, chúng tôi đã bình giải kỹ càng. Và cũng phải bằng cái tâm thành,
trong sáng. Không có thơ của Trần Ích Tắc để lại và nếu không giải mã được những
bí ẩn trong những bài thơ của ông, thì thật khó chiêu tuyết cho ông một cách
thuyết phục được! Đấy là chưa nói, Chiêu Quốc Vương Ích Tắc còn là một hoạ sĩ kỳ
tài, khi ông đã vẽ chân dung một số vị quân vương nhà Nguyên, tặng họ, như một
kiểu ngoại giao “mềm”, hết sức khôn khéo. Những kiệt tác ấy, hiện còn lưu giữ ở
bảo tàng phương Bắc, như những bảo vật vô giá của văn hoá nhân loại. Thử hỏi,
những việc tưởng là vặt vãnh như thế, lại cũng là những việc nịnh hót hèn hạ của
kẻ bán nước cầu vinh hay sao?
Cụ Hoàng Đức Lương, một vị danh Nho đời Hậu Lê
đã viết trong lời tựa cho cuốn sách TRÍCH DIÊM THI TẬP, có đoạn: “Thơ là màu sắc
ở ngoài màu sắc, mắt thường không thấy được; là mùi vị ở ngoài mùi vị, miệng
thường không nếm được; chỉ có thi nhân mới có thể thưởng thức được mà thôi!”…
Tóm lại, người không biết, chưa biết thì nên
bình tâm đọc kỹ, cố gắng suy tư, cùng tâm thế của kẻ hướng thiện, để có thể
thoát ra khỏi những mặc cảm cũ kỹ, để tiếp cận cái mới, nhận thức mới về nhân vật
lịch sử huyền thoại Trần Ích Tắc. Để thấy rằng, Chiêu Quốc Vương vĩ đại đến mức
nào. Công lao như trời biển của ông, của “con người có ích” rất lớn cho xã tắc, phải được tôn vinh xứng đáng với tầm vóc khổng
lồ của ông! Không thể khác được!
Đặc biệt hơn nữa, không thể không nói, đó
chính là tấm lòng biết ơn của chúng ta với tầm vóc trí tuệ tuyệt vời cao minh,
với tầm nhìn chiến lược rộng lớn, với ý chí bất khuất kiên cường của các vị
lãnh đạo triều Trần. Họ chính là tầng lớp tinh hoa hiếm có của dân tộc Đại Việt.
Họ tài năng kiệt xuất cả văn lẫn võ, chính trị và quân sự. Không có triều đại
nào trong lịch sử Đại Việt có thể so sánh với triều Trần. Ông vua nào, vương hầu
nào cũng là nghệ sĩ tài hoa, nhân văn và trí huệ. Tất nhiên, cũng có đôi ba người
không được toàn bích như thế!
Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu các vị lãnh đạo
văn hóa, hãy dành thời gian để nghiên cứu các công trình giải mã văn chương, lịch
sử, văn hóa của chúng tôi, ngõ hầu cùng chúng tôi vén lên bức màn huyền ảo của
lịch sử, trả lại danh dự cho một công dân yêu nước vĩ đại. Đó chính là người
anh hùng dân tộc, thiên tài trác việt nhất ở đời Trần, Chiêu Quốc Vương Trần
Ích Tắc!
Đó
cũng chính là tấm lòng hướng về cội nguồn, là truyền thống uống nước nhớ nguồn,
“ăn quả nhớ người trồng cây” nhân nghĩa, nhân văn đẹp đẽ của người Việt ta. Đó
cũng chính là trách nhiệm của người đời nay, của các cơ quan chức năng và nhà
nước đối với tiền nhân. Chúng tôi mong cụ Trần Ích Tắc sẽ được chiêu tuyết công
khai. Phải sớm trả lại công bằng, danh dự
cho Chiêu Quốc Vương, cho cả những nhà tình báo chiến lược phải hàm oan,
mà danh tính của họ còn bị che phủ bởi màn sương mù dày đặc ú ám!
Hà
Nội 10-10-2024
V.B.L
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét