Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2023

CÓ “SÓNG CUỒNG” TRONG THƠ TRẦN MẠNH HẢO? / Phạm Đức Nhì

 



 CÓ “SÓNG CUỒNG” TRONG THƠ TRẦN MẠNH HẢO?

 

Lời Nói Đầu:

 

Bạn bè chuyển cho bài viết của nhà thơ Chu Mộng Long nói về thơ Trần Mạnh Hảo. Chỉ riêng cái tựa của bài viết cũng dễ làm những người yêu thơ giật mình - Trần Mạnh Hảo: Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ. Ghê gớm quá! “Ấn Tượng” quá!

 

Muốn viết mấy dòng bình luận nhưng gặp lúc “vợ đẻ con đau nhà nước ngập” nên cứ nấn ná hoài. Mấy bữa nay con cái lấy “vacation” (phép) đưa các cháu đi chơi xa nên được ở nhà thảnh thơi, chợt nổi hứng, lấy máy ra gõ lóc cóc mấy đoạn góp vui với bạn bè yêu thơ.

 

Phải công nhận bài viết của nhà thơ Chu Mộng Long vóc dáng bề thế (2552 chữ), được viết trong lúc hứng khởi nên tuy là văn, mà lại khá nhiều cảm xúc, đọc cũng đỡ ngán. Đáng tiếc, có một chút hiểu lầm “nho nhỏ”.

 

 

Hiểu Lầm Chữ “Sóng” Trong Thơ

 

“Sóng” trong thơ có ý nói đến sức rung động, độ dạt dào của cảm xúc, hồn thơ mà bài thơ khơi gợi được trong lòng độc giả - chứ không phải, và không đến từ sức nặng, độ sâu sắc của câu chữ, ý tứ.

 

Tác Giả Hình Như Không Biết “Sóng” Phát Sinh Từ Đâu?

 

Đúng ra, phải đọc cả bài mới biết tứ thơ có dòng chảy hay không? Có dòng cảm xúc hay không? Có “sóng sau dồn sóng trước” hay không? Có tạo được cao trào hay không? Cảm xúc và hồn thơ trong bài thơ có mạnh hay không?

 

 

Muốn biết sông có sóng hay không, tốt nhất nên quan sát mặt sông, xem nó có dòng chảy hay lững lờ, phẳng lặng? Nếu có dòng chảy thì dòng chảy yếu, trung bình hay mạnh? Nếu thấy dòng chảy mạnh mới để ý xem có sóng không? Cường độ của sóng đến mức nào?

 

Không phải cứ múc vài thùng, vài phi nước từ dòng sông lên nhìn ngắm, xem xét rồi có thể phán “Con sông này sóng mạnh lắm, có thể làm lật cả thuyền câu”.

 

Hậu Quả Của Sự “Không Biết”

 

Bài viết của ông Chu Mộng Long mang phong cách giống như bình thơ không bàn thi pháp

 

Bình thơ không bàn thi pháp là chỉ bình tán ý tứ và lờ tít phần kỹ thuật thơ (thi pháp). Bình thơ như thế thì dưới mắt người bình bài thơ chỉ là một bản văn – không hơn không kém. Nhà bình thơ đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi cầm bút viết lời bình. Dù vậy, bài thơ cũng được phân tích lớp lang, hết đoạn này đến đoạn kia, để cuối cùng độc giả có thể nhận biết tứ thơ, thế trận của bài thơ hợp lý, nhất quán hay đoạn trước kể chuyện gà, đoạn sau bàn chuyện vịt.

 

Ông Chu Mộng Long không những không bàn thi pháp mà còn châm biếm việc áp dụng những “phương tiện thẩm mỹ” của thi pháp khi bình thơ.

 

Ông nói “Nếu thơ ông (Trần Mạnh Hảo) vào sách giáo khoa hay đề thi với những câu hỏi đọc hiểu lạnh lùng theo cách tra vấn phạm nhân: ‘Bài thơ thuộc thể thơ gì? Đoạn thơ sau nói gì? Chỉ ra các biện pháp tu từ’…, chẳng khác gì giết hại thơ ông”.

 

Theo tôi, nếu đầy đủ thì sau 3 dấu chấm (…) nên viết thêm ‘Cách gieo vần ra sao? Số chữ trong câu cố định hay thay đổi? Với biên độ rộng hay hẹp? Tứ thơ phân mảnh đứt đoạn hay nhất khí, liền mạch? Có mô gò cản đường? Có vờn bóng giữa sân? Tâm thế của thi sĩ trong lúc làm thơ ra sao?’

 

Nếu không trả lời những câu “tra vấn” đó thì làm sao ông Chu Mộng Long biết bài thơ có dòng chảy hay không? Có “sóng sau dồn sóng trước” hay không? Cường độ của “sóng” mạnh đến mức nào? Có thể  trở thành “Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ”?

 

Phương Cách Chứng Minh Không Đúng

 

Chính vì không biết “sóng (trong thơ) phát sinh từ đâu” nên ông Chu Mộng Long đã chọn phương cách chứng minh rất kỳ quặc.

 

Mỗi bài ông chỉ “móc” ra một hai câu, nhiều lắm là vài ba câu. Tập thơ hơn 500 bài mà ông chỉ chọn trích dẫn 101 câu – 687 chữ (1) mà cũng chẳng cho biết là trích dẫn từ những bài thơ nào. Cũng phải công nhận là ông có con mắt tinh đời. Hầu hết những câu thơ ông chọn đều mang đậm nét đẹp văn chương, câu cú chắc gọn, ngôn ngữ cao sang, ý nghĩa sâu sắc và mạnh bạo. Nhưng vì bị tách ra khỏi bài thơ nên khô cứng, lạc lõng, có thể khiến cái “phần lý trí” của độc giả vỗ tay khoái chí chứ không hề khơi gợi được nơi họ một chút “sóng tình” nào.

 

Vì thế nhóm chữ “Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ” từ cái tựa của bài viết không phải chỉ là sự phóng đại quá lố mà có thể nói đó là kết quả của việc “nhắm mắt nói liều” để “nâng” Trần Mạnh Hảo cho tới bờ, tới bến.

 

Với Nhà Thơ Trần Mạnh Hảo

 

Tôi có cảm tình với lối viết (cả văn lẫn thơ) của Trần Mạnh Hảo. Ông khen ra khen, chê ra chê chứ không vừa “ấy” vừa run như nhiều người khác. Ông cũng không chịu gò bó trong “gia quy, lệ làng, phép nước” mà rất mạnh bạo trong những bước chân khai phá vào vùng đất mới, kể cả những vùng đất cấm mà nhiều người né tránh.

 

Tuy nhiên, với văn thì tôi không dám nói, nhưng với thơ thì tôi với ông có khá nhiều điều khác biệt trong việc thẩm định giá trị nghệ thuật – và đặc biệt là hướng đi - của thi ca.

 

Theo tôi, thơ Trần Mạnh Hảo còn khuyết điểm, quá đậm chất trí tuệ, nhẹ chữ tình, giá trị nghệ thuật chưa và không thể xứng đáng với những lời tâng bốc vô căn cứ, thiếu cơ sở lý luận văn học của ông Chu Mộng Long.

 

Mời mọi người đọc bài viết sau đây để thông cảm hơn.  

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ BÀI THƠ “SÔNG LAM” CỦA TRẦN MẠNH HẢO

 

http://tranmygiong.blogspot.com/2023/07/vai-nhan-xet-ve-bai-tho-song-lam-cua.html  

 

 

Kết Luận

 

Như đã nói ở trên, do ông Chu Mộng Long phạm  phạm hai lỗi “nho nhỏ” là: 1/ Hiểu Lầm Chữ “Sóng” và 2/ Không Biết “Sóng” Phát Sinh Từ Đâu nên đã dẫn đến việc sử dụng hai chữ “Sóng Cuồng” sai lầm và nguy hiểm.

 

Tôi vì thơ nên bước vào góp mấy lời nhận xét. Mong nhận được chỉ điểm của các bậc cao nhân trưởng thượng và cả những bạn trẻ yêu thơ. Bởi với thơ thì “gừng càng già càng cay”, nhưng cũng nhiều khi “tài không đợi tuổi”.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

 

CHÚ THÍCH:

 

1/

 

Những Câu Thơ Được Trích Dẫn Trong Bài Viết Của Ông Chu Mộng Long

 

Tóc bạc cả nồi cơm/ Ta biết làm gì với chòm râu rơm rác/ Với vòm trời úp xuống như nơm

Khi con vừa rời lòng mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non”,

 “Sông Hồng lụt cả ca dao/ Con cò bị bão dạt vào lời ru

Con mới hiểu vì sao hạt thóc/ Lại mang hình con mắt mỏi mòn trông

 

Con bò thông minh hơn nhà bác học/ Thơ phú nào cũng rặt bọn ăn theo

như thể Hai Bà Trưng/Nhảy từ đê tuẫn tiết/Đến nay còn chưa rơi xuống lòng sông”!

Thơ hay có thể bị vua bắt/Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà

Ta thương triều đình trong tay nghịch đảng/ Thuyền độc mộc quốc gia bơi một mái chèo/ mái chèo mang hình lưỡi kẻ nịnh hót/Chó kiêu ngạo nhảy chồm lên bàn độc/ Muốn yên thân phải sống thật đói nghèo

 

Đến ngôi thiên tử còn rơm rác/Đầu rớt mà thơ vẫn tự trào

Cái xứ sở toàn đeo mặt nạ/ Con cáo ngồi thương đứt ruột con gà

Ôi xã tắc/ Con đường nào cũng dẫn đến pháp trường/ Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ”...

Có phải mẹ Âu Cơ đã đi vòng trái đất/Để làm chỗ khai sinh con Lạc cháu Hồng/Mẹ đã tìm ra dải đất hình tia chớp/Chọn vùng tâm bão để sinh con

Khi con vừa rời lòng mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non/ Có phải mẹ nhặt con lên từ đáy sông Hồng/ Mà hạt phù sa bật khóc

(Sông) vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát

Con cò mặc áo tơi đi học/Cá sông Lam còi cọc đổ mồ hôi/Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài/Trời hào phóng mây trắng/ Đất tằn tiện ngô khoai/Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa/ Đồ Nghệ sông Lam dạy biển cả học bài.

 

Sông Mã/ Chảy như chạy trốn núi rừng/Sông mải miết một đời Thanh Hóa/Để Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam

Cái dải đất sông hoá rồng chín khúc/Hai đầu xoè những mũi đất - mũi lao/Núi mang dáng ngựa phi voi phục/Báo ngủ rừng sâu đợi giặc vào

Ghen tị mãi với chim và chuột/Sao chúng mày không phải thờ vua?

Đội ơn vua ban cho tã lót/ Để cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt/ Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ hình/ Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn phò Thái Tổ

 

Sóng Nam Đài trằn trọc cát Thanh Hiên/Ngàn Hống thở hồng trần bay lục bát/Thúy Kiều ơi bầm nát gió Tiên Điền

trả thanh bình điệu cho Đường Minh Hoàng/ Gió cũng bị đày đi Dạ Lang

Cổ ta vừa với gông vua lắm/ Đố vua gông nổi mùa thu vàng

vỗ nát tì bà máu chảy/Cưới tiếng đàn làm vợ góa hồn ma

nghe hàng triệu lá phổi đang hắt ra cơn gió cuối cùng/ Gom thành bão trên đất này than khóc

 

Cỏn con một sợi lông mày/ Mà đem cột trái đất này vào anh

Liều mình lao xuống yêu thương/Ai hay dưới đáy đoạn trường vầng trăng

Mắt ta đêm nay khác nào hai giếng nước/ Nước Việt ơi/Nước Việt mãi hai hàng

Gió kinh thành có về Tức Mặc/Bẻ giùm ta ít hương cau/Nhặt giùm ta vài tiếng ếch/Ta nghe khi tới xứ người

Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần

Thương anh sống đời vô sản/ Chết xuống vẫn làm ma vô sản

chết rồi còn giơ tay cầu cứu/chết rồi còn quờ tay tìm lối thoát", "biển không nhận/ bờ không nhận/những trang sách không nhận/không ai nhận những con người

 

Ta đã chết ở hai đầu trận tuyến/Bảy mươi ơi số phận biến đâu rồi?/Từ trong mộng hồi quang xin tận hiến/Bắt đền em ngấu nghiến tuổi hai mươi”, "Ôi đất nước/Anh đã yêu đến băng hoại cả đời”

Trái tim đập không một ai nhìn thấy/Ở ven trời Tây Bắc có Lai Châu/ Hoa ban nở thành người con gái Thái/ Đám mây bay trong thau nước gội đầu

 

Tập thơ hơn 500 bài, 500 trang

Cả bài viết: 2552 chữ

Thơ được trích dẫn: 101 câu, 687 chữ

 

Mấy lời nói thêm

 

Nếu ông Chu Mộng Long, hoặc bất cứ ai đọc bài viết này, tìm được một bài thơ nào đó của Trần Mạnh Hảo có “Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ” cứ đưa vào phần bình luận.

 

Tôi tin rằng chúng ta sẽ có một cuộc đối thoại văn chương lý thú.

 

 

…………

 

       TRẦN MẠNH HẢO: SÓNG CUỒNG XÔ DẠT ĐỀN THƠ / Chu Mộng Long

 



Tôi không quen thân Trần Mạnh Hảo. Chỉ biết ông qua những trang thơ sóng cuồng xô dạt cả đền thơ, qua những trang phê bình dữ dội xé tan những trang văn mẫu gọi là giáo khoa. Tôi trong mắt ông chỉ là anh giáo dạy văn mẫu như một lần gặp cách đây đã 30 năm tại chiếu thơ nhỏ nhoi ở nhà một người thầy cũng dạy văn như tôi. Nhưng bất ngờ ông gửi tặng tôi tuyển tập thơ nóng hừng hực vừa ra lò và tặng cho tôi đủ loại nhà, "nhà giáo", "nhà văn", "nhà phê bình".

       Thú thật, xác định tầm vóc Trần Mạnh Hảo, tôi không đủ tự tin làm một trong các "nhà" trên. Khen hay chê đều rất khó khăn và mạo hiểm. Có giáo sư từng xúi tôi “đánh” Trần Mạnh Hảo, hoặc cũng có nhiều bạn văn bảo tôi nên “tránh xa” ông. Họ bảo Trần Mạnh Hảo “Chí Phèo”, “lưu manh”, có người còn miệt thị ông là “con gà hoang tưởng nhờ tiếng gáy của mình thì trời mới sáng”. Tôi mà chê Trần Mạnh Hảo, khác nào dí dao vào một trái tim cháy bỏng, cháy luôn cả tay mình. Còn khen ông, không chừng các giáo sư chửi tôi là kẻ phản đồ, đám văn nghệ sĩ tiểu yêu đố kỵ, ganh ghét, xông vào tạt cả axit vào mặt tôi.

       Tôi cứ trông các cuộc họ đánh nhau với ông mà chợn. Đoàn quân của các giáo sư trùng trùng điệp điệp tấn công Trần Mạnh Hảo, họ tuyên bố chiến thắng như thể đoàn quân Hy Lạp tự hào san phẳng thành Troy, nhưng lại tan tác trong trận sóng cuồng Poseidon. Họ không biết Trần Mạnh Hảo là cơn sóng cuồng như vậy.

Xác định tầm vóc Trần Mạnh Hảo không thể nhờ vào chiếc gậy phê bình của các giáo sư và đám nô tài viết theo văn mẫu.

       Trần Mạnh Hảo chẳng là gì cả khi thơ ông chẳng đèm đẹp, mơ màng hay sướt mướt để được tán dương thành "tình yêu thiên nhiên", "yêu đất nước" hay "nhân đạo sâu sắc" mà các giáo sư lựa chọn đưa vào sách giáo khoa cho trẻ con học. Họ không thể nuốt trôi cái giọng văn, khí văn mạnh mẽ, ngất trời nhưng cũng thăm thẳm minh triết của ông. Tầm các giáo sư quen mây trời treo trên mái tóc với hoang tưởng thành ông tiên, sao có thể cảm nổi cái câu thơ Trần Mạnh Hảo dành cho Khuất Nguyên: “Tóc bạc cả nồi cơm/ Ta biết làm gì với chòm râu rơm rác/ Với vòm trời úp xuống như nơm…”? Tim các giáo sư chỉ đủ rung trong cái ao tù bình lặng với vài con cá lia thia mà nhầm tưởng là đã hết lòng yêu nước thương nòi, sao có thế cảm được con sông Hồng quặn đau như người mẹ sinh con “Khi con vừa rời lòng mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non”, hay “Sông Hồng lụt cả ca dao/ Con cò bị bão dạt vào lời ru”? Miệng các giáo sư chỉ biết ăn nhậu hỉ hả sau những bội thu nhờ bán văn mẫu, sao có thể nuốt trôi cái nỗi niềm “Con mới hiểu vì sao hạt thóc/ Lại mang hình con mắt mỏi mòn trông”? Đám giáo sư dỏm và bọn nhà thơ được các giáo sư tâng bốc càng không thể dám đọc đến câu thơ móc ruột chúng: “Con bò thông minh hơn nhà bác học/ Thơ phú nào cũng rặt bọn ăn theo”. Khi chỉ có leo lẻo lòng tự hào truyền thống, chắc chắn các giáo sư phải ngơ ngác trước cái hình ảnh treo lửng lơ một bi kịch ngàn năm của dân tộc “như thể Hai Bà Trưng/Nhảy từ đê tuẫn tiết/Đến nay còn chưa rơi xuống lòng sông”!

       Trần Mạnh Hảo cũng chẳng là gì cả khi thơ ông không vuốt đuôi quyền lực để được quyền lực nâng đỡ, cho tiền hỗ trợ sáng tác hay trao giải thưởng cao quý cho ông. Đám quyền lực quen nịnh hót không thể không sôi ruột lên khi nghe cái câu Trần Mạnh Hảo dành cho thi tiên Lý Bạch: “Thơ hay có thể bị vua bắt/Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”. Kẻ độc tài khát máu không thể không muốn ăn tươi nuốt sống ông khi ông hát khúc Ly tao mới: “Ta thương triều đình trong tay nghịch đảng/ Thuyền độc mộc quốc gia bơi một mái chèo/ mái chèo mang hình lưỡi kẻ nịnh hót/Chó kiêu ngạo nhảy chồm lên bàn độc/ Muốn yên thân phải sống thật đói nghèo”. Chắc chắn, cả quyền lực lẫn quân nịnh hót đều hoảng hốt muốn treo đầu ông nhiều lần để thị uy khi ông muốn làm một Cao Bá Quát: “Đến ngôi thiên tử còn rơm rác/Đầu rớt mà thơ vẫn tự trào”. Và khi quyền lực chỉ biết giả nhân giả nghĩa, chúng không thể không nghẹn họng khi phải nuốt cái câu thơ thác vào khúc Ly tao hơn ngàn năm trước của Khuất Nguyên: “Cái xứ sở toàn đeo mặt nạ/ Con cáo ngồi thương đứt ruột con gà”.  Càng không thể nuốt trôi một câu cảm thán, dù chỉ nói về thời đại Nguyễn Trãi: “Ôi xã tắc/ Con đường nào cũng dẫn đến pháp trường/ Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ”...

       “Đền thơ” với những trang thơ, trang phê bình, trang sách giáo khoa do bọn ma quỷ tự phong thần không thể dung nạp Trần Mạnh Hảo. Họ muốn bôi xóa tên tuổi ông bằng mọi cách, nhưng kết cục, họ tự phơi xác trước trận sóng cuồng mang tên Trần Mạnh Hảo.

       Trần Mạnh Hảo không là gì cả đối với giới quyền lực tham lam, không là gì cả đối với trí thức, văn nghệ sỹ cơ hội lưu manh. Nhưng ông là tất cả đối với đất nước, đối với nhân dân, đối với những người sống và đau cùng với nỗi đau của đất nước và nhân dân mình. Sức mạnh của Trần Mạnh Hảo trào dâng lên từ trái tim cháy bỏng, mạnh đến mức bọn quyền lực tham lam khiếp sợ, bọn trí thức, văn nghệ sĩ cơ hội, lưu manh lẩn trốn. Nói gọn là quân tiểu nhân vô lại không có đất sống trong thơ Trần Mạnh Hảo. Chúng lấm lét đọc bài này và sẽ chê: đại ngôn!

       Nhưng tôi tin, những ai biết đào sâu vào tận gốc rễ cảm xúc và tư tưởng Trần Mạnh Hảo, hứng từng con sóng ngôn từ của ông vào trái tim và biến nó thành sức mạnh của mình thì mới thấy hết chiều kích Trần Mạnh Hảo.

       Không đóng khung trong mảnh đất Hà Nam Ninh từng sinh ra Tú Xương, Nam Cao, Nguyễn Bính…, chinh bà mẹ non sông đất nước này sinh ra Trần Mạnh Hảo trong quằn quại khổ đau. Trần Mạnh Hảo là đứa con sinh ra từ tâm bão của Đất nước hình tia chớp: “Có phải mẹ Âu Cơ đã đi vòng trái đất/Để làm chỗ khai sinh con Lạc cháu Hồng/Mẹ đã tìm ra dải đất hình tia chớp/Chọn vùng tâm bão để sinh con…”. Chúa không nặn nên hình hài ông từ vườn Địa Đàng mà chính con sông Hồng quặn máu tươi nắn nên hình hài ông: “Khi con vừa rời lòng mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non/ Có phải mẹ nhặt con lên từ đáy sông Hồng/ Mà hạt phù sa bật khóc”. Là con sông Lam “vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát” để nuôi ông đồ xứ Nghệ, cũng là nuôi tính cách và tài năng của ông: “Con cò mặc áo tơi đi học/Cá sông Lam còi cọc đổ mồ hôi/Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài/Trời hào phóng mây trắng/ Đất tằn tiện ngô khoai/Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa/ Đồ Nghệ sông Lam dạy biển cả học bài”. Là con sông Mã đưa hồn ông theo vó ngựa tiền nhân đi mở nước: “Sông Mã/ Chảy như chạy trốn núi rừng/Sông mải miết một đời Thanh Hóa/Để Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam”. Là con sông Cửu Long neo hồn ông vào cánh cung để từ đó phóng ra những mũi lao vào giặc ngoại xâm lẫn nội xâm: “Cái dải đất sông hoá rồng chín khúc/Hai đầu xoè những mũi đất - mũi lao/Núi mang dáng ngựa phi voi phục/Báo ngủ rừng sâu đợi giặc vào”… Trần Mạnh Hảo được sinh ra và nuôi lớn từ những dòng sông để hồn ông hóa thành hồn sông núi. Ông hóa thành biển cả để hơn 70 năm cuộc đời vẫn còn “ừng ực uống dòng sông” và dâng lên thành sóng cuồng thơ.

       Trần Mạnh Hảo mang chiều kích của tất cả các đại thi hào xưa nay dồn lại. Ông làm một Tư Mã Thiên đêm cung hình “Ghen tị mãi với chim và chuột/Sao chúng mày không phải thờ vua?” Ông làm một Nguyễn Trãi trước giờ tru di: “Đội ơn vua ban cho tã lót/ Để cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt/ Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ hình/ Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn phò Thái Tổ”. Ông làm một Nguyễn Du để nghe “Sóng Nam Đài trằn trọc cát Thanh Hiên/Ngàn Hống thở hồng trần bay lục bát/Thúy Kiều ơi bầm nát gió Tiên Điền”. Ông làm một Lý Bạch “trả thanh bình điệu cho Đường Minh Hoàng/ Gió cũng bị đày đi Dạ Lang" và thách thức: "Cổ ta vừa với gông vua lắm/ Đố vua gông nổi mùa thu vàng”. Ông làm một Bạch Cư Dị “vỗ nát tì bà máu chảy/Cưới tiếng đàn làm vợ góa hồn ma”. Và ông hóa thành Đỗ Phủ để “nghe hàng triệu lá phổi đang hắt ra cơn gió cuối cùng/ Gom thành bão trên đất này than khóc”… Ông là đại dương hội tụ tất cả mọi dòng sông thơ, ở đó kết tinh máu, nước mắt của mọi cuộc đời, mọi thời đại và biến thành trùng trùng điệp con sóng vừa vỗ về yêu thương vừa uất nghẹn căm hờn.

       Trần Mạnh Hảo hoàn toàn tự do dù phải sống trong cái nơm trời chật hẹp. Ông cầm chiếc đinh ba vùng vẫy đến làm lung lay, xô dạt cả đền thiêng quyền lực Olimpus. Với Trần Mạnh Hảo, không có đền nào là thiêng, dù đó là nơi thống trị của quyền lực hay của nhà thơ, nhà phê bình tự phong là thánh. Ông đủ tầm vóc để nhạo báng tất cả. Người ta bảo ông mục hạ vô nhân, nhưng tôi thấy điều ấy chỉ dành cho những kẻ không là "nhân". Ông trân trọng nâng niu cái đẹp dù cỏn con nhất của nhân tình: “Cỏn con một sợi lông mày/ Mà đem cột trái đất này vào anh”. Đẹp với ông là bi kịch, bi kịch của phận người. Bi kịch của Thúy Kiều: “Liều mình lao xuống yêu thương/Ai hay dưới đáy đoạn trường vầng trăng”. Bi kịch của Huyền Trân: “Mắt ta đêm nay khác nào hai giếng nước/ Nước Việt ơi/Nước Việt mãi hai hàng”, "Gió kinh thành có về Tức Mặc/Bẻ giùm ta ít hương cau/Nhặt giùm ta vài tiếng ếch/Ta nghe khi tới xứ người...". Bi kịch của Nguyễn Bính: “Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần”. Bi kịch của Nguyên Hồng: “Thương anh sống đời vô sản/ Chết xuống vẫn làm ma vô sản." Bi kịch của "những người Việt Nam vượt biên chết chìm trên biển", "chết rồi còn giơ tay cầu cứu/chết rồi còn quờ tay tìm lối thoát", "biển không nhận/ bờ không nhận/những trang sách không nhận/không ai nhận những con người"... Và bi kịch của chính ông: “Ta đã chết ở hai đầu trận tuyến/Bảy mươi ơi số phận biến đâu rồi?/Từ trong mộng hồi quang xin tận hiến/Bắt đền em ngấu nghiến tuổi hai mươi”, "Ôi đất nước/Anh đã yêu đến băng hoại cả đời". Mục hạ vô nhân thế nào mà viết được câu thơ sáng cả đất trời Tây Bắc và sáng cả lòng dân đất Việt: "Trái tim đập không một ai nhìn thấy/Ở ven trời Tây Bắc có Lai Châu/ Hoa ban nở thành người con gái Thái/ Đám mây bay trong thau nước gội đầu"? Trong hơn 500 bài thơ dài ngắn khác nhau, những câu thơ đẹp nao lòng như vậy nhiều vô kể. Không cần “phi vần điệu”, “tân hình thức” để gọi là cách tân thơ, thơ ông cứ tuôn trào tự nhiên, lớp sóng này xô lấy lớp sóng kia và trào lên thành sóng dữ. Ông không quy phục vần điệu mà bắt vần điệu phải quy phục ông. Cho nên ông mới mỉa mai thứ “tân hình thức” thành “tân con cóc”, thực chất là mỉa mai cuộc chạy trốn tự do của những nhà thơ hèn nhát. Não ông chứa đầy hình ảnh với những tưởng tượng, liên tưởng siêu phàm. Từ dòng sông, ngọn núi cho đến con mối, con mọt; từ áng mây, ngọn gió đến một bát canh cua,  con hà con hến; từ ánh mặt trời rực rỡ hay ánh trăng lung linh đến hạt sương, con kiến hay sợi lông mày…, cái gì vào thơ ông đều được tâm hồn ông nhào nặn, biến hóa và nâng lên với chiều kích vừa cao vời vợi vừa sâu thăm thẳm. Hơn 500 bài thơ, không có bài nào xếp vào hàng thơ dở, điều này có lẽ xưa nay hiếm! Đã từng đọc thơ Trần Mạnh Hảo thì những thứ thơ lâu nay được cho là hay bỗng trở nên nhạt thếch!

Viết về Trần Mạnh Hảo phải tốn hàng ngàn trang cũng không đủ. Có lần tôi muốn học viên cao học làm một luận văn về ông, nhưng nghĩ không đủ tầm. Vả lại, không chừng làm hại học viên khi khó có một hội đồng yêu Trần Mạnh Hảo.

       Tầm vóc Trần Mạnh Hảo là vậy nhưng không được tuyển hay giới thiệu vào sách giáo khoa phổ thông hay giáo trình đại học. Đơn giản vì các “thánh” sợ hãi ông. Họ sợ con sóng thơ ông mà dội vào hồn tuổi trẻ, nó sẽ mạnh lên thành sóng cuồng làm phơi xác các “thánh”. Nhưng vậy là may cho ông. Nếu thơ ông vào sách giáo khoa hay đề thi với những câu hỏi đọc hiểu lạnh lùng theo cách tra vấn phạm nhân: “Bài thơ thuộc thể thơ gì? Đoạn thơ sau nói gì? Chỉ ra các biện pháp tu từ”…, chẳng khác gì giết hại thơ ông. Dẫu sao tôi và các bạn yêu thơ phải biết ơn Nguyễn Quang Thiều và Ban biên tập của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Họ đã vượt qua sự sợ hãi để in tuyển tập Trần Mạnh Hảo, một tuyển tập có thể làm cho quỷ thần cũng kinh hãi!

 

       Chu Mộng Long

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét