Thứ Ba, 13 tháng 9, 2022

LẠI CHUYỆN SỬA THƠ / Phạm Đức Nhì

 



      Sửa Thơ – “Chuyện Thường Ngày Ở Huyện”

 

Sửa thơ, dù tác giả muốn hay không, đồng ý hay không, cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”.

Có bài thơ bị đè ra mông má, sửa chữa rồi bằng thủ thuật nào đó cho xuất hiện ở chỗ này, chỗ khác với bộ mặt mới là chuyện thường xảy ra. Tác giả không được thông báo.

Đó là lý do khi trích dẫn một câu thơ, một đoạn thơ để hỗ trợ cho bài viết của mình người chơi thơ có trường hợp phải chọn lựa một trong số nhiều phiên bản của bài thơ xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau.

Có một vài “tụ điểm văn chương” còn tự cho mình cái quyền “biên tập” bài tác giả gởi đăng (trong đó có thơ).

Chính tôi cũng có lần, thấy bài thơ mới trình làng của mình, thoắt một cái, đã xuất hiện trên diễn đàn này, trang web nọ với dung nhan đã qua “viện thẩm mỹ miệt vườn”.

Nhưng bên cạnh lối sửa thơ thô bạo và khuất tất đó cũng có những người tham dự vào việc sửa thơ một cách lịch sự và quang minh chính đại. Họ liên lạc trực tiếp với thi sĩ hoặc viết bài công khai đưa ra “đề nghị sửa thơ” của mình.

Trong quãng đời chơi thơ tôi rất may mắn nhận được nhiều “đề nghị sửa thơ” trong đó có hàng chục lần tôi chấp nhận lời đề nghị với lòng biết ơn sâu sắc.

Sau đây là hai trường hợp làm thí dụ:

1/ Bờ Vẫn Quá Xa

……………….

Ở Mỹ, tôi quen vợ chồng người Hoa

vợ cô giáo, chồng luật sư

yêu nhau tha thiết

nhưng định mệnh trớ trêu, oan nghiệt

cô vợ bị hiếp dâm

ít lâu sau đẻ thằng con

đen như cột nhà cháy

 

Anh chồng ôm mặt khóc như điên như dại

chạy ra khỏi phòng sanh

vợ tay nắm chặt thành giường

ngất lịm

 

       Trở về nhà

cô vợ trẻ người Hoa

đã có thể cho đi đứa con khác màu da

để mỗi ngày người chồng

khỏi thấy vết thương lòng

bị chà đi, xát lại

(một đoạn trong Bờ Vẫn Quá Xa, Phạm Đức Nhì)

 

Có 2 đề nghị:

1/ Thêm “nén lòng” sau “đã có thể”

2/ Thêm “gạt nước mắt” sau “đã có thể”

Tôi đã chấp nhận đề nghị 2.

Đoạn thơ trở thành:

Trở về nhà

cô vợ trẻ người Hoa

đã có thể gạt nước mắt

cho đi đứa con khác màu da

để mỗi ngày người chồng

khỏi thấy vết thương lòng

bị chà đi, xát lại

Nhóm chữ “gạt nước mắt” nhấn mạnh nỗi đau của người mẹ phải cho đi “đứa con ngoài ý muốn” để bảo vệ tình vợ chồng và hạnh phúc gia đình sau này.

Trong câu thơ nguyên bản tôi (Phạm Đức Nhì) chú ý đến chuyện “có thể” mà quên nỗi đau của người mẹ phải từ bỏ đứa con.

Người đề nghị sửa thơ là một “trung niên nam tử hán”. Không ngờ anh lại thấu hiểu tâm tình của người mẹ sâu sắc đến như vậy. Hay tại tôi hời hợt quá chăng?

Tôi đã may mắn được gặp anh ở Quận 8 Sài Gòn để mời anh ly cà phê để tỏ lòng biết ơn.

2/ Bản Tình Ca Hai Con Suối Nhỏ

Lắm lúc muốn làm thơ

về mối tình hai đứa

(mối tình nào chẳng nên thơ em nhỉ?)

nhưng sao anh vẫn cứ ngại ngùng

 

Có một khúc sông

nơi gặp nhau của hai con suối nhỏ

anh nghe

trong làn nước

tưởng như im lìm đó

có tiếng em thì thầm.

 

Em ơi! Làn nước trong xanh

từ hai con suối chúng mình đổ lại

sẽ trăm năm chảy mãi

góp cho đời

muôn khúc nhạc du dương

 

Ôi tuyệt vời

những tiếng nhạc yêu thương

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com    

 

       Có người đề nghị sửa đoạn thơ thứ hai thành:

Có một khúc sông

nơi gặp nhau của hai con suối nhỏ

có người nghe

trong làn nước

tưởng như im lìm đó

tiếng đôi ta to nhỏ tự tình

Theo chị - vâng, người sửa thơ năm ấy là một phụ nữ tuổi khoảng 6 bó – nơi khúc sông đó giờ không chỉ có tiếng thì thầm đơn lẻ, quạnh quẽ của người con gái mà là tiếng to nhỏ tự tình đầm ấm, yêu thương của đôi tình nhân đang tha thiết yêu nhau.

Tôi copy bài thơ với vóc dáng mới qua một trang khác rồi đọc đi đọc lại vài lần. Và nhận ra “nét đẹp” của tứ thơ giờ đây không phải chỉ quanh quẩn nơi đôi tình nhân mà lan tỏa rộng khắp.

Các bạn không cần lên rừng xuống biển, đội đá vá trời mới có thể đóng góp cho nhân quần, xã hội. Cứ tìm “một nửa” tâm đầu ý hợp của mình rồi hết lòng yêu thương. Khi làm việc, khi chơi đùa, lúc rưng rưng lệ, lúc cười râm ran, cả những lúc “có bốn chân giường gẫy một còn ba”, rôi sinh con đẻ cái, tạo dựng một gia đình đầm ấm.

Chỉ cần như thế thôi là các bạn đã như hai con suối nhỏ gộp lại.

“Góp cho đời muôn khúc nhạc du dương

Ôi tuyệt vời những tiếng nhạc yêu thương”

Tôi nhìn bài thơ trên màn hình laptop mà lòng sung sướng tự hào vì đã được “trời cho” sở hữu một thi phẩm có thi pháp trong sáng và tứ thơ thấm đẫm tính nhân văn.

Tôi hỏi địa chỉ của chị để, nếu có dịp, đến thăm, tặng chị chút quà đền ơn. Nhưng chị cương quyết chối từ.

 

ANH BẰNG SỬA THƠ YÊN THAO

 

1/ Đổi Tựa Đề

Nhạc sĩ Anh Bằng khi phổ nhạc bài thơ Nhà Tôi của Yên Thao đã đổi tựa đề bài thơ thành Chuyện Giàn Thiên Lý.

Xin được phép lập lại một điểm quan trọng đã viết trong một bài khác:

“Tựa đề là một chữ hay một nhóm chữ chỉ ra cái cốt tủy của toàn bài.”

Nhà Tôi là tâm trạng hồi hộp, lo âu của một người lính trước giờ nổ súng mà mục tiêu của trận đánh lại chính là ngôi làng bên kia sông, có căn nhà nơi những người thân yêu nhất của mình, bà mẹ già và cô vợ trẻ, đang cư trú.

Như vậy tâm điểm của tình thương yêu, nỗi lo âu của người lính là căn nhà (và những người trong đó). Giàn thiên lý chỉ là một bộ phận “ngoại vi”, nằm ở góc vườn, không quan trọng lắm so với căn nhà.

Giả sử sau trận đánh, giàn thiên lý bị sập mà ngôi nhà còn nguyên thì tác giả cũng mừng rỡ, coi đó là đại phúc cho gia đình. Nhưng nếu căn nhà cháy đổ (gây thương vong cho người thân) thì dù giàn thiên lý vẫn đứng vững, sự mất mát, nỗi đau buồn cũng dâng cao đến tột cùng.

“Giàn thiên lý” chỉ được nối với khung cảnh bài thơ bằng một sợi tơ mong manh; tác giả có thể thay nó bằng nhóm 3 chữ khác mà bài thơ không tăng giảm giá trị bao nhiêu. Trong bài này nó chỉ được “nhân tiện” đưa vào ở “giờ thứ 25” để câu cuối bài thơ được trọn vẹn:

Nhà tôi ở cuối Thôn Đồi

Có giàn thiên lý, có người tôi thương.

 

2/ Đổi “Vùng Giặc Đóng” thành “Vùng Lửa Khói”

Tôi đứng bên này sông

 Bên kia vùng giặc đóng

là 2 câu mở đầu bài thơ của Yên Thao.

Khi phổ nhạc bài thơ nhạc sĩ Anh Bằng sửa lại:

Tôi đứng bên này sông

Bên kia vùng lửa khói

Trước hết, đưa nhóm chữ “vùng lửa khói” vào không ăn khớp với thực tế trận địa; chưa nổ súng thì làm gì có “lửa khói!”

Hơn nữa, chi tiết làng tôi là “vùng giặc đóng” khiến việc đánh bật trại giặc để chiếm lĩnh mục tiêu trong một trận đánh có cả pháo binh sẽ rất nguy hiểm cho căn nhà và những người sống trong đó. Điều này làm nỗi lo của người lính lớn hơn, khơi dậy nơi người đọc cảm xúc mạnh hơn. Anh Bằng đã làm tứ thơ dở đi rất nhiều khi thay nhóm chữ trên.

Như vậy, khi phổ nhạc bài thơ Nhà Tôi, nhạc sĩ Anh Bằng đã (ít nhất)“vụng” ở hai chỗ:

1/ Lấy một hình tương “ngoại vi”, phụ thuộc để làm tựa đề cho bản nhạc (Chuyện Giàn Thiên Lý) trong khi cái tựa Nhà Tôi của thi sĩ - chỉ ra cái cốt tủy của toàn bài – thì lại bỏ đi.

2/ Đổi “Bên kia vùng giặc đóng” thành “Bên kia vùng lửa khói” vừa sai lạc thực tế trận địa vừa giảm nỗi lo sợ của người lính và do đó làm nhẹ cường độ cảm xúc khơi dậy trong lòng người đọc.

 

TÔ ĐÔNG PHA SỬA THƠ VƯƠNG AN THẠCH

 

Vương An Thạch trong lúc du học ở đảo Hải Nam đã làm một bài thơ trong đó có hai câu rất lạ:

Minh Nguyệt sơn đầu khiếu

Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm

Dịch nghĩa:

Trăng sáng hót đầu núi

Chó vàng nằm (trong) lòng hoa

Thi hào Tô Ðông Pha tình cờ đọc được, thấy “sai” (trăng sáng làm sao hót trên đầu núi và chó vàng làm sao nằm trong lòng hoa được) nên đã sửa lại hai chữ cuối cho đúng nghĩa hơn.

Minh nguyệt sơn đầu chiếu

Hoàng khuyển ngọa hoa âm

Dịch nghĩa:

Trăng sáng soi đầu núi

Chó vàng nằm (dưới) bóng hoa

Chuyện sửa thơ đến tai Vương An Thạch (lúc ấy đang là Tể Tướng) nên họ Vương đã bổ nhiệm Tô thi hào một chức quan ở Hải Nam. Sau đó Tô Ðông Pha mới khám phá ra ở địa phương này có loại chim tên là Minh Nguyệt, hay hót trên đầu núi, và có một loại sâu tên là Hoàng Khuyển, chỉ thích nằm trong lòng hoa!

Và người kể chuyện kết luận “Lúc ấy Tô Ðông Pha mới biết là mình xớn xác, bồng bột và thấy được cái thâm trầm của Vương An Thạch.”

Theo tôi, việc Tô Đông Pha sửa thơ không có gì là “xớn xác, bồng bột” hết. Người đọc thơ, bình thơ – trong thế giới thơ rộng lớn - không thể biết và không có bổn phận phải biết những chi tiết, sự việc chỉ có, chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé.

Chính thi sĩ - để hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ - phải chú thích để người đọc biết, hiểu những chi tiết, sự việc có tính chất địa phương ấy. Lỗi và trách nhiệm ở đây nằm trên hai vai Vương An Thạch chứ không phải Tô Đông Pha.

 

TÔI (PĐN) ĐỀ NGHỊ SỬA THƠ NGUYỄN BÍNH

 

Gợi, Không Kể (Show, Don’t Tell) Là Gì?

Gợi, Không Kể là một kỹ thuật viết trong đó câu chuyện và các nhân vật có liên quan với nhau thông qua các chi tiết và hành động cảm tính chứ không phải là sự trình bày, tóm tắt.

Nó thúc đẩy một phong cách viết cuốn hút hơn cho người đọc, cho phép họ “ở cùng phòng” với các nhân vật.

(Show, Don’t Tell là biện pháp tu từ phát xuất từ Tây Phương, dịch là Gợi, Không Kể cũng hơi gượng nên tôi xin phép được dùng nguyên chữ gốc cho chính xác. Mong độc giả thông cảm.)

Show minh họa, trong khi Tell chỉ phát biểu (thông tin chính trong một câu chuyện.

Thí dụ:

Tell:

Nghe đồn đám cưới cô ấy to lắm.

Show:

Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu

Nhà gái ăn chín nghìn cau

Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn

Trong thí dụ trên, nếu tác giả chỉ Show, không Tell – không nói gì đến “to” hay “nhỏ” hết - thì người đọc vẫn “thấy” được đám cưới to đến mức nào. Mà lại còn sinh động hơn, chi tiết hơn chữ “to” đơn lẻ.

Tóm lại,

Tell: Tóm tắt hay tường thuật theo lối chỉ kể cho người đọc biết điều xảy ra.

Show: Dùng sự mô tả và hành động để giúp người đọc trải nghiệm câu chuyện.

Show, Don’t Tell Trong “Giấc Mơ Anh Lái Đò”

Bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò có 14 câu (lục bát) được chia thành 4 ý nhỏ như sau:

1/ Hai câu đầu:

Năm xưa chở chiếc thuyền này

Đưa cô sang bãi tước đay chiều chiều

Đây là khởi điểm của mối tình đơn phương. Tác giả chỉ nói đến công việc đưa đò kiếm sống của mình nhưng cũng đồng thời vẽ nên khung cảnh, hoàn cảnh được tiếp xúc, gần gũi với cô gái: Gặp nàng, biết nàng trong mối quan hệ chủ thuyền và khách đi đò qua bãi. Thủ pháp Show, Don’t Tell đã bắt đầu lộ diện.

2/ Sáu câu kế tiếp:

Để tôi mơ mãi mơ nhiều

“Tước đay xe võng nhuộm điều ta đi

Tưng bừng vua mở khoa thi

Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng

Võng anh đi trước võng nàng

Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”

Tác giả không nói gì về tình yêu nhưng khi người đọc nghe chàng tâm sự là đã đưa cô gái vào trong cả giấc mơ “vinh quy bái tổ” của mình thì hiểu ngay rằng chàng đã yêu cô say đắm. Show, Don’t Tell đã rất khéo và rõ nét.

3/ Bốn câu kế tiếp:

Đồn rằng: Đám cưới cô to

Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu

Nhà gái ăn chín nghìn cau

Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn

Chữ vụng nhất và theo tôi, làm giảm giá trị của cả đoạn thơ là chữ “to”. Chính chữ “to” đã để lộ ý của tác giả trong đoạn này và đã làm thủ pháp Show, Don’t Tell thất bại. Ngay câu đầu độc giả đã biết đám cưới của cô gái to rồi. Ba câu kế tiếp chỉ làm rõ nghĩa thêm cho chữ “to” mà thôi. Cái thú được bất ngờ bật ra câu: “À! Đám cưới cô ấy to như thế đấy” không còn nữa. Ý đã bị lộ.

4/ Hai câu Kết:

Lang thang tôi dạm bán thuyền

Có người giả chín quan tiền, lại thôi

Trong khi cả cơ nghiệp của anh lái đò – là chiếc thuyền – đem gạ bán thì người ta chỉ trả có chín quan tiền. Hai câu thơ chỉ nói đến việc dọ giá bán thuyền nhưng đã ngầm chứa khoảng cách giầu nghèo ghê gớm giữa anh lái đò và tình địch của mình. Và hậu quả là nỗi đau đến xé tâm can về mối tình vô vọng đã đổ ập xuống đầu anh lái đò đáng thương. Show, Don’t Tell ở 2 câu kết thật tuyệt vời.

 

Giá Trị Nghệ Thuật Của “Giấc Mơ Anh Lái Đò”

Ngôn ngữ thơ đẹp một cách bình dị, câu cú đơn giản nhưng vững chắc về mặt ngữ pháp. Các ý nhỏ trong bài thơ tự động gắn chặt với nhau một cách tự nhiên, không cần những chữ nối (liên từ) hoặc câu nối. Bốn đoạn Show, Don’t Tell thì 3 đoạn thành công, đặc biệt hai câu kết - một thủ pháp Show, Don’t Tell xuất sắc.

Bài thơ, không những chỉ nổi trội về mặt thi pháp mà còn thành công về mặt cảm xúc. Tứ thơ chảy nhẹ nhàng, chậm rãi nhưng thành dòng rõ rệt. Đến cuối bài cảm xúc dâng lên cao ngất; nỗi đau của mối tình vô vọng như một cơn mưa lớn đổ ập xuống tràn ngập tâm hồn anh lái đò. Bài thơ, rất khéo, kết thúc ở cao trào.

 

Tiếc Cho Nguyễn Bính

Mỗi lần đọc lại hoặc ngâm nga bài Giấc Mơ Anh Lái Đò trong đầu tôi lại hiện ra một câu hỏi: “Tại sao một tài thơ hiếm có như Nguyễn Bính lại vô ý đến độ đưa chữ “to” rất “thô”, rất vô duyên ấy vào bài thơ?”

Chỉ cần tác giả “giấu” được chữ “to” thì 3 câu kế tiếp sẽ đóng vai trò cung cấp thông tin để từ đó người đọc tự nhận ra “À! Đám cưới cô ấy to thật”. Đoạn thơ sẽ trở thành Show, Don’t Tell một cách tự nhiên.

Ba câu kế tiếp không còn là những anh “thợ vịn”, đưa vào để “làm việc phụ” mà sẽ trở thành những công nhân lành nghề, có đóng góp quan trọng cho công trình Giấc Mơ Anh Lái Đò.

Mà giấu chữ “to” thì thiếu gì cách. Với kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn như Nguyễn Bính chẳng lẽ không nghĩ ra được một câu lục có vần “o” mà vắng bóng chữ “to”?

Chẳng hạn (đơn giản nhất):

Đồn rằng đám cưới của cô

Giả sử Nguyễn Bính giấu được chữ “to” bằng câu lục (mà câu “Đồn rằng đám cưới của cô” của tôi là thí dụ) thì chỉ riêng về mặt thi pháp, 4 đoạn Show, Don’t Tell cũng thừa sức đưa Nguyễn Bính và Giấc Mơ Anh Lái Đò lên một trong những chỗ ngồi rất trang trọng giữa vườn thơ tươi đẹp của nhân loại.

Với vóc dáng ấy, Giấc Mơ Anh Lái Đò có đến 4 đoạn liên tiếp – không có liên từ hoặc câu nối - sử dụng thủ pháp Show, Don’t Tell hoàn hảo. Không những thế, toàn bài thơ - tất cả 14 câu, 98 chữ - đều nằm gọn dưới vùng phủ sóng của Show, Don’t Tell, không một chữ nào lọt ra ngoài.

Trong kho tàng thơ ca Việt Nam, cho đến lúc tôi viết những dòng chữ này, CHƯA một thi phẩm nào, với cùng độ dài ấy, sử dụng thủ pháp Show, Don’t Tell tuyệt vời đến như vậy.

Chữ “to” ấy đã làm đoạn 3 mất đi danh hiệu Show, Don’t Tell và đáng tiếc nhất là do đó, tác giả đã để vuột khỏi tay chiếc huy chương vàng dành cho thi sĩ có Thi Phẩm Hoàn Toàn Show, Don’t Tell.

 

Kết Luận

Có những “thủ thuật” sửa thơ thô bạo, khuất tất nhưng cũng có kiểu (đề nghị) sửa thơ lịch sự, quang minh chính đại, cho phép “người đề nghị sửa thơ” và thi sĩ có thể nắm tay nhau đi đến tận cùng giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Vừa làm thơ, vừa bình thơ nên đối với việc sửa thơ, tôi có mặt ở cả hai phía. Vừa cho vừa nhận. Cho đi cũng khá nhiều và nhận lại cũng không ít.

Cái lợi ích của việc “đề nghị sửa thơ” là có khi chỉ một chữ, một nhóm chữ, một câu thơ cũng đủ tạo thành chiếc cầu kết nối những tâm hồn đồng điệu.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

2 nhận xét:

  1. Tôi đọc bài viết, đọc thêm một lần nữa. Cám ơn tác giả bài viết vì đây như một bài học phong phú!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Như vậy là bài viết của tôi đã có chút hữu ích cho độc giả. Cám ơn anh đã bình luận.

      Xóa