“Phạm Trọng Thanh tuyển tập” một tác phẩm dầy dặn , hơn 400 trang nội dung về thơ, phú, văn chương của gần một đời người suy nghĩ chắt bóp viết nên nói sao cho hết. Tôi chỉ xin chắt lọc vài lời xúc động mà thôi. Mỗi nhân vật tác giả kể ra là từ tấm lòng của mình muốn thổ lộ với bạn đọc, với đời thật sâu sắc.
Với ông Bùi Huy Đáp trong bài “Về thăm
quê người sáng tạo lúa xuân Miền Bắc”. Rất vinh hạnh hôm ấy có tôi cùng đi với
tác giả. Về quê Bùi Huy Đáp ở làng cổ Bách Cốc, thuộc xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định. Làng có 12 dòng họ từ Bạch Hạc chuyển về, từ dạo xa xưa ở đây
còn gần cửa biển côi Sơn.
Nhiều
danh thần kiêm văn võ, những tri thức yêu nước sinh ra ở đây, trên những hàng
bài vị tiên liệt làng Bách Cốc còn tỏa rạng. Nơi từ đường 12 dòng họ nơi đến,
chùa Bách Cốc văn chỉ của làng; trên những hoành phi, câu đối và 28 bia đá soạn
lập qua nhiều thế kỉ, tỏ mờ dấu vết thời gian. Mới lướt qua lịch sử của làng.
Giáo sư Bùi Huy Đáp sinh năm 1919 tại
Bách Cốc, trong môt gia đinh có truyền thống hiếu học, thân phụ ông, cụ Bùi
Long Đống đậu tam trường trường thi Nam Định. do học thêm quốc ngữ cụ được bổ dụng
làm Tổng sư (thày giáo hàng tổng) tổng Trình Xuyên, huyện Vụ Bản. Hai anh em
ông đều chăm học và học giỏi. Bùi Huy Đáp năm 12 tuổi đã đậu sơ học, có tiếng học
giỏi. Thi vào bậc học thành chung trường Bưởi Hà Nội, ông đỗ đầu khoa thi có
900 thí sinh dự thi được hưởng học bổng. Mười sáu tuổi học đip lôm, được hưởng
học bổng toàn phần, Bùi Huy Đáp lại đỗ đầu. Khi Nha thanh tra Nông Lâm Đại học
Nông lâm đào tạo kĩ sư Đông Dương có hơn 500 tú tài dự thi, nhà trường chỉ tuyển
15 học sinh, Bùi Huy Đáp đã trúng tuyển. được nhiều thày là kĩ sư, tiến sĩ người
Pháp phụ trách các bộ môn. Bùi Huy Đáp đã được thày khen. Tổng kết 3 năm học
ông đước thứ 5 trong 15 sinh viên tốt nghiệp. Lần đầu tiên phát bằng kĩ sư ở
Đông Dương, buổi lễ được cử hành trọng thể có Toàn quyền Đông Dương phát biểu
ngắn, nhắc lại lời Thống chế Petain bên Pháp: ”Đất đai không biết nói dối, nó
trả lai hậu hĩnh những công sức đã bỏ vào nó”.
Ngày vinh quy, kĩ sư Bùi Huy Đáp đáp
tàu về Nam Định. Trong niềm vui của gia đình, ông bố mừng hơn cả con trai: ”Con
đã đỗ tú tài, nay lại đỗ kĩ sư, hơn tú tài, cũng là cử nhân, mấy đời nhà ta mới
có! Bà mẹ chậm rãi nói với con: ”Thế là cái nghề tầm thường của mẹ, con đã mất
ba năm mới học được! Mà cày bừa cấy hái con có biết gì đâu? Con phải năng đi
nông thôn, gặp người nông dân.
Ông
đã nghe lời mẹ tìm nông dân để học những bài học từ nông dân quê nhà…
Với
nhũng vốn kiến thức học được, sau này đứng trên bục giảng ở nhiều giảng đường,
ông nói với sinh viên điều tâm đắc của mình: ”Làm khoa học nông nghiệp là phải
biết hỏi nông dân và cây cỏ. Hỏi nông dân thì phải biết cách hỏi và cách nghe
những câu đơn giản về đời sống, công việc và kinh nghiệm sản xuất làm ăn của họ;
chú ý nghe họ trả lời và nắm nhũng điểm chính. Hỏi cây thì phải quan sát cẩn thận,
phân tích những đặc điểm đặc thù, không chủ quan lắp vào những định kiến có sẵn“.
Ông trân trọng những bậc “lão nông tri điền” ở làng quê, coi họ như những người
thày.
Cách mạng tháng 8 thành công, kĩ sư
Bùi Huy Đáp được làm phó giám đốc Nha đông mục Thủy lâm ở Hà Nội. Khi bộ Canh
nông trong Chính phủ kháng chiến được thành lập kĩ sư Canh nông Cù Huy Cận được làm bộ trưởng. Bùi
Huy Đáp được giữ (1946) lại làm Tổng thư kí (tương đương trợ lí Bộ trưởng hiện
nay). Công tác đào tạo cán bộ được triển khai ngay trong thời chiến do ông đề
xuất, các lớp trung cấp nông nghiệp mở ở Huế (1946), khu IV khu V (1947) rồi
trường Trung học Canh nông Việt Bắc (1948). Năm 1952, Viện Trồng trọt được
thành lập ở căn cứ Việt Bắc, ông được cử làm viện trưởng. Viện trưởng Bùi Huy
Đáp đã mở lớp học dài hạn cho tất cả cán
bộ kĩ thuật, cung cấp những thông tin mới, những tài liệu mới từ Pháp, Liên Xô
(cũ), từ Trung Quốc và một số nước XHCN, ông giải các vấn đề: ”sinh vật và ngoại
cảnh tiến hóa của sinh vật; đồng và dị hóa; thay cũ đổi mới; di truyền và biến
dị; đấu tranh và sinh tồn; Chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo; Chủ nghĩa
Đac-uyn Xô viết…
Đến năm 1956, Nhà nước ta cho mở 5 trường
Đại học đầu tiên: Tổng hợp, Sư phạm, Y dược, Bách khoa, Nông lâm, các Quyết định
do Hồ Chủ Tịch kí. Bùi Huy Đáp được cử làm hiệu trưởng, trường Đại học Nông Lâm
(sau là trường đại học Nông nghiệp). Qua 15 năm phụ trách trường Đại học nông
nghiệp (5 năm làm hiệu trưởng) và nhiều năm trực tiếp giảng dạy đã đào tạo nhiều
kĩ sư giỏi, được đồng nghiệp và nông dân quí trọng.
Năm 1996, giáo sư Bùi Huy Đáp, được Nhà
nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1), với công trình khoa học Lúa xuân,
đánh dấu một thành công khoa học của ông.
Trên thế giới, có những văn minh nông
nghiệp nhiệt đới khá sớm lưu tâm ngay sau thời kì phát triển rực rỡ. Bùi Huy
Đáp viết: Châu thổ sông Hồng nay vẫn là vựa lúa quan trọng của nước ta… Châu thổ
sông Hồng thời kì đầu có năng suất 4ta/ha , nay đã cho năng suất gấp 15-25 lần
và ở ngưỡng cửa 100ta/ha…. khi được bón đủ đã cho năng suất 120ta/ha/năm (Nam Định,
Thái Bình).
Trong cuốn viết ở tuổi 84: ”Cuộc đời
khoa học nông nghiệp của tôi”, giáo sư
Bùi Huy Đáp giành cho cây lúa xuân hơn một chương với rất nhiều kỉ niệm
trong suốt hành trình khảo sát, nghiên cứu, thực nghiệm. Lúa xuân khởi đầu ở Hà
Tây về Thái Bình, Nam Định, sang Hưng Yên, lên Vĩnh Phú… Cái cốt yếu Bùi Huy
Đáp kiên quyết loại bỏ vụ lúa chiêm “Đi cấy cắn răng, đi gặt lè lưỡi” do thời
tiết khắc nghiệt! Thay bằng vụ lúa xuân bằng cách gieo vụ mạ xuân “QUANH NHỮNG
NGÀY LẬP XUÂN” tránh rét sớm chết mạ, nóng nhiều mạ già…, gieo mạ bằng mộng khỏe trên bùn non dàn mỏng dùng ni lôn che kín. Bằng giống ngắn ngày.
Lúa trỗ quanh tiết Thanh minh rất an
toàn, “Vinh cả xã“. Nông dân vui vẻ làm theo chúng ta. Cùng với sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước với Nghị Quyết 10 chỉ thị 100 lối làm ăn đổi mới, nông nghiêp bừng
lên, lúa tốt đầy đồng nhà
nhà thóc chất đầy kho dư dật, un ùn
gạo trắng gạo thơm xuất khẩu…
Trong đó nhờ công lao của Bùi Huy Đáp, nhớ ơn ông suốt đời!
Về thăm quê “Người sáng tạo lúa xuân Miền
Bắc”, chúng ta cảm nhận được điều dân làng ở đây tâm đắc. Tên làng Bách Cốc từ
bao đời nay đã mong ước vọng mùa màng “Phong đăng hòa cốc” thóc gạo đầy nhà.
Vinh quang thuộc về những người biết
làm giầu cho quê hương đất nước. Người thầy nhà khoa học Việt Nam, giáo sư nông
học Bùi Huy Đáp đã làm điều ấy. Tại
thành phố Nam Định, một đường phố mang tên ông. Ở Hà Nội, trong khuôn
viên trường đại học Nông nghiệp (Nay là Học viện Nông Nghiệp) năm 2013, tượng
chân dung Giáo sư Bùi Huy Đáp đã khánh thành, tôn người thày mẫu mực, vị hiệu
trưởng đầu tiên, đã góp công thức và tâm huyết vào việc sáng lập trường đại học
của nền Nông nghiệp Việt Nam vượt qua những khó khăn thử thách trở thành điểm
sáng tin yêu từ thuở ban đầu gây dựng chưa dễ gì quên. Tính đến nay chia tay
chúng ta, thày đã đi xa khá lâu rồi. Bây giờ mỗi lúc nghĩ đến thày, nhìn đồng
lúa xanh ngát bao la, lại nhớ lời thày nói như hát “Lúa xuân xuân mãi không
già” sao mà sâu xa mà hay đến vậy…
Những tấm gương hình ảnh nữa không quên:
Với
tác giả Minh Chính, làm thơ từ bé, rồi sớm vào Nam đánh giặc, để lại bản thảo
thơ, trong đó có bài thơ hay đã phổ nhạc lưu lại cho đời. Nhưng khi tìm đến địa
danh, quê hương và bao nhiêu tình với thơ, với người thì mờ nhạt. Cuối cùng nhờ
nhà thơ Trần Hòa Bình (1956-2008) đã giúp và nói việc ”Đi tìm dấu tích tác giả
bài thơ Đi Học, một đi không trở về… là dịp để anh “bày tỏ niềm xúc động của
mình trước tấm lòng những người đang sống hôm nay đối với những người đã ngã xuống
vì sự sống của đất nước. Đây cũng là dịp để anh được biết thêm về tác giả Minh
Chính”. Một trong rất nhiều gương mặt của một thế hệ tuyệt đẹp – Nhưng đã sẵn
sàng hi sinh tất cả: Tình yêu, học hành, những say mê, ước vọng của bản thân để
cầm súng ra trận. Nếu không có sự dở dang nghiệt ngã ấy nhiều người trong số họ
rất có thể sẽ thành những tài năng, những người nổi tiếng. Nhưng họ đã ra đi và
mãi mãi không trở về. Tự hào thay và cũng đau đớn thay!” (Trần Hòa Bình )
“Ta
đi nghìn đêm gian khổ/ Chỉ mong đất nước hòa bình”!
Nhớ nhà thơ Minh Chính trong sự tiếc
thương của gia đình, bạn bè và nhân dân nước bạn, chỉ 5 năm sau ngày anh ngã xuống,
khát vọng của anh đã thành hiện thực trên đất nước liền một giải núi sông bất
khuất, tiếng sóng dập dìu âm vang câu hát “Cọ xòe ô che nắng” nao nức đường các
em đi. Mấy lời nghĩ ngợi suy tư mà tự hào, mà đau đớn với Minh Chính của chúng ta…
Với nhà thơ Nguyễn Bính: Ông đã để lại
bao nhiêu thơ ca và một rừng thương nhớ. Cuộc đời lận đận kể sao cho xiết. chỉ
xin kể ra một vài kỷ niệm ngây thơ, yêu mến của ông với một người con gái lái đò
sông Châu. chuyện đã lâu rồi nhưng tình cảm giữa người thì còn nhớ mãi. khiến
những người trong giới thi ca cùng làm việc với ông cứ lẩn thẩn đi tìm người
con gái ấy. May sao: ”Kia rồi, kia rồi! Cô ấy đã về”. Tôi vui hơn cả khách sang
sông được người chở đò đón đợi. Một tiếng chào giọng nữ trung trong trẻo (Cô
sinh năm 1950) và người ấy bước ra sân đón khách. Mái tóc đen, gương măt, tươi sáng, trang phục của
phụ nữ chững chạc lịch thiệp. Cô lái đò tuổi 16 “bẻ gẫy sừng trâu”năm xưa đây ư?.
Cái duyên chở đò không bao giơ lấy tiền đò của Nguyễn Bính. Cái người khi nhà
văn Chu Văn báo tin bác Bính làm thơ sang đò năm ngoái đã mất, đã òa khóc bên
mái chèo, rằng “Cháu muốn được chết thay để bác Bính sống làm thơ“ là đây?. Giọt
nước mắt thánh thiện ấy, chắc sông Châu còn giữ…
…Chiều lưu luyến nắng. Chúng tôi làm thủ
tục chia tay Cô lái đò Sông Châu bên bến sông quê tình nghĩa. Trước khi về Nam
Định, chúng tôi cùng bước xuống bến đò. Sông Châu sóng xanh óng ánh dáng chiều.
Bờ bên kia sương nhẹ, tre pheo xòe bóng. Con đò vắng khách cắm sào đợi ai. Cô
Thoa tươi cười bên mi nước. Sông Châu bây giờ cây cầu bê tông đã nối đôi bờ, tiếng
còi xe văng vẳng, loang xa.
Ngày mai cô Thoa cũng lên đường. Tôi
ngồi sau lưng bạn, nhẩm thầm câu thơ trong bài “cô lái đò“ nhà thơ Nguyễn bính
viết từ những năm ba mươi thế kỉ trước:
”Vắng bóng cô em từ dạo ấy/ Để buồn cho những khách sang sông“. Thật tha thiết
não lòng.
Ga Núi Gôi cần dựng một tượng đài. Như
một lời kêu gọi, không ai có thể cầm
lòng! Cái chết của 14 cô gái Thái Bình trong một trận đánh của máy bay Mĩ ở ga
Núi Gôi. Không chết vì bom đạn mà chết vì hơi độc của thuốc hóa học, thật xót
xa. Tác giả đã tha thiết đề đạt: ”Ga núi Gôi cần đựng một tượng đài“ - Một tượng
đài mang biểu tượng chiến công của huyện Vụ Bản thời chống Mĩ. Một tượng đài dựng
ngay sau ngôi đền nhỏ sân ga, đứng lồng lộng trên mặt hồ nguyên là một mảnh của
gương của Biển Đông lùi xa còn giữ lại. Một tượng đài tập thể, người nhân viên
nhà ga phía sau đứng cao phất cờ thông tuyến. Một bên người chiến sĩ vác vòi rồng
dập lửa; một bên người công nhân chống
xà beng điềm tĩnh ngẩng đầu. Trung tâm là hình tượng người nữ Anh hùng hai tay nâng một người nữ đồng đội,
phía trước chị là bốn chị em cùng trong trang phục thanh niên xung phong ngày ấy.
Một tượng đài thềm bệ Bắc, một cây cầu nối vào ngôi đền sân ga. Một tượng đài
vút cao chân Núi Gôi có dịp chiêm ngưỡng một chiến công, nghe ngân vang mãi lời
chúc “Thượng lộ bình an” trên đất nước thanh bình.”
Nhớ dòng thơ: Ai đi xa còn nhớ tìm về/
Đất ngấm độc, cỏ ríu ran giải độc/ Tiếng coì tầu trong vắt/ Như chưa một lần
báo động ở ga Gôi.
( Đỗ Phú Nhuận)
Tập sách dầy dặn chứa đựng tình cảm
sâu xa, biết nói bao nhiêu cho đủ. Tôi chỉ xin bày tỏ đôi lời trước Người Thày,
Người Bạn, và Những Người Liệt Sĩ anh linh… cùng với tác giả, nhà văn Pham Trọng
Thanh đa tình đa cảm, vậy thôi. Và có một nhóm Văn nghệ sĩ với nội dung trải
lòng được tác giả lựa chọn đăng theo:
“Thơ Phạm Trọng Thanh, Những chia sẻ tâm tình”. Tôi xin thống kê lần lượt
như sau:
- Pham Trọng Thanh của Nghệ sĩ Trần
Mạnh Thường.
- Cảm hứng quê hương trong “Mùa hạ
đi tìm” của nhà thơ Vũ Quần Phương.
- Thơ Phạm Trọng Thanh mấy cảm nhận
về tiếng thơ thiết tha của nhà giáo ưu tú Đỗ Thanh Dương.
- Phạm Trọng Thanh nhà thơ chính
danh của Nhà văn Phạm Ngọc Chiểu.
- Hinh ảnh người chiến sĩ trong thơ
Phạm Trọng Thanh của Thiếu tướng Trịnh Vệ.
- ”Một mai xuân đã hẹn với đêm rằm” của
Thạc sĩ Nguyễn Công Thành.
- Vẻ đẹp nghĩa tình trong một phong
cách thơ tài hoa lịch lãm của nhà thơ Nguyễn Thị Mai.
- Pham Trọng Thanh “Khe khẽ bóng trăng
lên” của nhà thơ Trần Mạnh Hảo.
- Sáng mãi vần thơ tỏ nét người với
hồn thơ chất chứa tâm hồn của nhà thơ Phạm Ngọc Khảnh.
- Nhà thơ Phạm Trọng Thanh như tôi
biết của nhà thơ Nguyễn Chí Dũng.
- Những trang thơ tri ân của nhà văn
Lê Hoài Nam.
- Biết dựa vào nguồn cội của nhà thơ Trằn Bá
Giao.
- Bên vòng tròn ca dao – nét đẹp
truyền thống của bà mẹ nông thôn V N của nhà nghiên cứu Lê Văn Hy.
- Lời bình bài thơ “Buổi ấy đại hành
Hoàng đế đi cày“ của nhà thơ Lê Huy Hòa.
- “Trấu vàng rắc dặm vàng phơi” của
nhà thơ Trần Trung.
Bấy nhiêu cây bút, bấy nhiêu tình cảm nỗi lòng,
chân trọng góp phần tôn vinh tác giả lên vị trí thanh cao, và làm lung lay tác
phẩm thêm đáng kính để đời!...
PHẠM NGỌC KHẢNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét