Bắt Đầu Từ Cuộc Tranh Luận Về Thi Pháp
Cách đây khá lâu tôi có viết
bài Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp để phê phán lối bình thơ của 3 nhà phê bình
Châu Thạch (Trương Văn Trạn), Nguyễn Bàng và Bùi Đồng. Lý do: Khi bình thơ họ
chỉ bình tán ý tứ và “lờ tít” phần thi pháp của bài thơ.
Những gì liên quan đến kỹ thuật
thơ, “tính thơ” họ đều chặt bỏ (cho gọn) để việc bình tán được đơn giản, dễ
dàng. Rốt cuộc bài thơ trên bàn mổ của họ
chỉ là một “bản văn” không hơn, không kém.
Ông Lê Thiên Minh Khoa, một
người theo trường phái Lý Luận Phê Bình Văn Học của Nga, có một bình luận dài
dưới bài viết của tôi. Bình luận ấy đã được chuyển thành bài viết Vài Ý Kiến Về Bình Thơ Không Thi Pháp và được anh
Châu Thạch (Trương Văn Trạn) gởi đăng trên trang web Bông Tràm.
Độc giả nếu muốn, có thể đọc
2 bài tranh luận theo links (1 và 2) ở phần CHÚ THÍCH.
Cách Hiểu “Tứ Thơ” Của Ông Lê Thiên Minh
Khoa
Ông Lê Thiên Minh Khoa diễn
giải “tứ thơ” như sau:
“Tứ thơ” được hiểu
như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống
các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ).
Như vậy, theo ông Khoa, tứ
thơ gồm 3 thành phần: 1/ Hệ thống các ý trong bài thơ; 2/ “Tình” của nhà thơ;
3/ ngôn ngữ (từ).
Nhưng rồi ông lại viết:
“Cả ba yếu tố đó tổng
hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm”.
Như vậy tứ thơ cũng chính là
“bài thơ – tác phẩm”.
Độc giả (chắc giống tôi) đã
thấy hơi “bối rối” (confused) thì ông Khoa lại viết tiếp:
Như thế, chất trí
tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết
công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.
À! Khi “chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và
trí tưởng tượng của nhà thơ được sử dụng hết công suất (làm sao biết được là ‘hết
công suất’ hả trời?) thì tứ thơ vươn mình thành ‘cấu tứ’”.
Tóm lại, theo sự diễn giải của
ông Khoa thì tứ thơ cũng chính là bài thơ (tác phẩm) và cũng chính là “cấu tứ”.
Nhưng không hiểu sao ông lại
viết thêm:
“Chính tứ thơ làm
cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất
là thơ hiện đại".
Tứ thơ cũng là bài thơ mà lại
còn viết “Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ” thì đúng là “Vân Tiên
cõng mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô”
Sợ độc giả (cũng như tôi)
không tiêu hóa nổi những ngôn từ đầy tính học thuật của ông Lê Thiên Minh Khoa
rồi “tẩu hỏa nhập ma” đánh đồng Tứ Thơ với Bài Thơ hoặc Cấu Tứ nên tôi viết mấy
đoạn vắn tắt dưới đây để phân biệt.
PHÂN BIỆT TỨ VÀ Ý
Nếu nói thơ có phần xác và phần
hồn, trái với nhận định của một số người, tôi cho tứ thơ thuộc về phần xác. Khi
đã có chủ đích viết cái gì (ý)
thi sĩ sẽ chọn cách tiếp cận, cách truyền đạt ý của mình đến độc giả.
Công việc lựa chọn ấy - tìm tứ thơ – sẽ đóng góp lớn cho giá trị
của bài thơ nếu tác giả chọn được tứ hay, mới lạ. Dù có vai trò quan trọng như
vậy nhưng việc tìm tứ thơ lại do lý trí đảm nhiệm. Tứ thơ, và cả ý, đều là sản
phẩm của lý trí.
Ý: Điều tác
giả muốn nói đến
Tứ: Cách để
tiếp cận, diễn đạt ý
Khi tác giả chọn cách nói trực
tiếp, nói thẳng điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý,
ý và tứ là một.
Thí dụ:
Giấc Mơ Anh Lái
Đò của Nguyễn Bính
Ý và Tứ là một:
Anh lái đò nói về mối tình tuyệt vọng của mình.
Hồ Trường của
Nguyễn Bá Trác
Ý và Tứ là một:
Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh
Khi tác giả không muốn nói trực
tiếp, không muốn nói thẳng điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện
khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ
là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình.
Thí dụ:
Ông Đồ của Vũ
Đình Liên
Tứ: Ông đồ
ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông
đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.
Ý: Tác giả
muốn nói đến nền nho học đã lụi tàn.
Nhớ Rừng của Thế
Lữ
Tứ: Con hổ
trong vườn bách thú tiếc nhớ những ngày còn là chúa sơn lâm, tự do vùng vẫy nơi
rừng sâu núi cao - giang sơn của mình.
Ý: Tác giả
mượn lời con hổ để nói đến hào khí, hoài bão, ước mơ của chính mình.
CẤU TỨ LÀ GÌ?
Cấu tứ chỉ đơn giản là bố cục
của bài thơ. Tác giả dàn thế trận chữ nghĩa sao cho đủ sức thuyết phục để độc
giả đồng ý rồi đồng cảm với điều mình muốn tỏ bày.
Ngôn ngữ bóng đá là sắp xếp đội
hình, thế trận hợp lý - kỹ thuật cá nhân của cầu thủ được phát huy tối đa, các
nhóm, các tuyến công thủ phối hợp nhịp nhàng, ăn ý. Mục đích cuối cùng là chọc
thủng lưới đối phương, đem phần thắng cho đội nhà.
Cấu Tứ Của Bài Thơ “Giấc Mơ Anh Lái Đò”
Bài thơ được chia làm 4 đoạn:
1/
Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Tác giả giới thiệu hoàn cảnh
mà từ đó tình yêu của chàng với cô gái đã bén rễ: được mỗi chiều – bằng chiếc
thuyền nhỏ bé của mình – chở cô sang bãi tước đay.
2/
Để tôi mơ mãi mơ nhiều
“Tước đay xe võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”
Tác giả không nói gì về tình
yêu nhưng khi người đọc nghe chàng tâm sự là đã đưa cô vào trong cả giấc mơ
“vinh quy bái tổ” của mình thì hiểu ngay rằng chàng đã yêu cô say đắm.
3/
Đồn rằng: đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Tình địch của anh lái đò quá
giàu, có thể tổ chức một đám cưới linh đình để lấy cô về làm vợ. Không kể việc
thuê chín chiếc đò để đón dâu, đem đến nhà gái chín nghìn cau làm lễ vật mà còn
có thể nạp chín nghìn quan tiền (một số tiền rất lớn) cho khoản tiền cheo, tiền
cưới.
4/
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi
Trong khi cả cơ nghiệp của
anh lái đò – là chiếc thuyền – đem gạ bán thì người ta chỉ trả có chín quan tiền.(3)
Nguyễn Bính đã chia tứ thơ
thành 4 ý nhỏ, dàn thế trận chữ nghĩa một cách gọn gàng, mạch lạc, hợp lý để độc
giả “thấy” được, hiểu được, và cuối cùng đồng cảm với “nỗi đau xé ruột” của
mình.
Giới chuyên môn sẽ cho rằng Cấu
Tứ của bài thơ thành công. Ngôn ngữ thì có vẻ “cao cấp” lắm nhưng ý nghĩa thì
chỉ có thế.
Kết Luận
Ông Lê Thiên Minh Khoa bước
vào cuộc tranh luận về thi pháp hình như chỉ để “khoe của”. Ông tuôn ra toàn những
ngôn ngữ, ý niệm “đao to búa lớn”, đầy tính học thuật để “uy hiếp” chủ thể đối
luận của mình và để “lòe” độc giả. Có điều chính ông cũng chưa “tiêu hóa” được
những ý niệm đầy tính học thuật đó.
Ông chưa phân biệt được Tứ
Thơ, “Bài Thơ – Tác Phẩm”, Cấu Tứ và nhất là văn bản nào đáng được trao danh hiệu
Thơ và văn bản nào chỉ nên xếp vào loại “những cây dị chủng”.
Sau khi đọc cách hiểu Tứ Thơ
trong “rừng thi pháp học” của ông Lê Thiên Minh Khoa chắc không ít độc giả đã cảm
thấy hoang mang, bối rối. Mục đích của bài viết này là để “chữa cháy”. Khi đối
diện với Tứ Thơ, Bài Thơ, Cấu Tứ - những danh từ rất gần gũi trong thơ – cách
giải thích đơn giản của tôi hy vọng sẽ giúp quý vị tránh được một cơn nhức đầu
không đáng có.
Phạm Đức Nhì
……………….
CHÚ THÍCH:
1/
Vài Ý Kiến Về Bình Thơ Không
Thi Pháp
http://www.bongtram.com/2018/04/vai-y-kien-ve-binh-tho-khong-thi-phap.html
2/
Trao Đổi Với Ông Lê Thiên
Minh Khoa Về Thi Pháp
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2018/04/trao-oi-voi-ong-le-thien-minh-khoa-ve.html
3/ Được trích trong Giấc Mơ Anh Lái Đò Hay Mối
Tình Vô Vọng (Phạm Đức Nhì)
http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2016/06/giac-mo-anh-lai-o-hay-moi-tinh-vo-vong_1.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét